Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 12: Tổng Hợp Kết Bài Về Bài Thơ Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm (57 Mẫu) Kết Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Gxpp.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tiếp nối dòng mạch cảm xúc trong thơ ca yêu nước của lịch sử văn học dân tộc, Đất Nước trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến một nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của bài thơ Đất Nước này đã góp phần chứng tỏ tầm trí tuệ, tài năng vượt bậc và sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.
Như vậy, tư tưởng cốt lõi “đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại’ đã được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một cách bình dị, giản đơn mà sâu sắc đầy chất triết lý trong đoạn trích. Với những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp độc đáo với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã khiến cho Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm sẽ mãi lưu dấu ấn sâu đậm trong lòng mỗi bạn đọc như một bài ca bất hủ không bao giờ quên. Và tác giả cũng đã góp phần làm tư tưởng đất nước của nhân dân trở lên phong phú hơn trong thơ ca thời kỳ chống Mỹ.
Bằng cách đề cao vai trò to lớn của nhân dân lao động đối với đất nước, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa đã làm rõ tư tưởng cốt lõi “Đất nước của nhân dân”, khẳng định vai trò, sức mạnh và sự ảnh hưởng của nhân dân đối với lịch sử và đất nước. Đó là cả một truyền thống lâu đời trong lịch sử văn học dân tộc. Tác phẩm đã tạo nên những cảm xúc, những rung động âm vang trong lòng mỗi người đọc chính từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của chính bản thân tác giả mà nói lên những suy nghĩ chung của cả một thể hệ đối với đất nước. Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp thêm một thi phẩm cho nền văn học Việt Nam viết về đất nước, làm sâu sắc thêm
Như vậy, trích đoạn “Đất Nước” đã thể hiện tài năng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong việc kết hợp nhuần nhuyễn cảm xúc và suy tư, chiêm nghiệm, tạo nên chất chính luận và trữ tình quyện hòa. Qua những câu thơ mang đậm chất duy lí vừa chặt chẽ, logic vừa mang âm hưởng thiết tha, vang vọng, chúng ta có thể thấy được quan niệm thân thuộc, gắn bó và thân thiết về Đất Nước, giống như những câu thơ mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu bản trường ca “Mặt đường và khát vọng”:
Như vậy, bằng việc vận dụng sáng tạo hình thức thơ trữ tình – chính luận, thể thơ tự do, giọng thơ biến đổi linh hoạt và sử dụng chất liệu văn hóa dân gian đa dạng qua phong tục tập quán, lối sống, sinh hoạt, ca dao, dân ca, tục ngữ, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không gian nghệ thuật đặc biệt để làm nổi bật tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”. Qua tư duy mới mẻ của nhà thơ, hình tượng Đất Nước đã được khám phá ở nhiều phương diện về chiều sâu văn hóa, chiều rộng không gian cũng như chiều dài của thời gian. Bằng chính trải nghiệm của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên một tuyên ngôn độc đáo về đất nước, từ đó truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ nhập cuộc, “lên đường” tham gia công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm, đồng thời đánh thức tình yêu quê hương luôn tồn tại trong tâm thức và trái tim hàng triệu con người Việt Nam.
Đất Nước đã được nhà thơ lí giải cắt nghĩa theo cảm nhận của riêng mình. Đoạn thơ thể hiện niềm tự hào, trân trọng sâu sắc của tác giả dành cho Tổ quốc mình. Đoạn thơ rất thành công với thể thơ tự do mỗi câu như một cảm xúc trào dâng từ đáy lòng thi sĩ. Nhà thơ đã vận dụng thành cồn những chất liệu văn hóa văn học dân gian. Và khi kết thúc những câu thơ ấy, trong lòng người đọc cũng xuất hiện hình ảnh đất nước vừa quen thuộc, vừa mới lạ, vừa thiêng liêng, vừa gần gũi và biết bao mến thương.
Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc. Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn còn sống mãi trong lòng người đọc.
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.
Bằng lời văn giản dị mà tinh tế, đầy sức thuyết phục đã làm rõ nét hình ảnh Đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Dáng vẻ Đất Nước đầy thân thương như chẳng thể nào phai mờ trong những thứ nhỏ nhặt nhưng không chút tầm thường.
Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ tình – chính trị, đoạn trích Đất Nước quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn, quy tụ vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.
Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh túy nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.
Đất nước đã được xem là một đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mỹ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng đã nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh trường kỳ và vô cùng ác liệt này. Chính vì thế có thể nói rằng tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã được nhà thơ phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Dùng chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn, biến đổi linh hoạt đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ và thống nhất với tư tưởng “đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài thơ.
Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Đoạn thơ đã “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: “tổng – phân – hợp”; mở đầu là câu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, khép lại đoạn thơ là câu “Đất Nước có từ ngày đó”. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
Đất nước đã thể hiện những suy ngẫm vô cùng sâu sắc, những tình cảm tha thiết của ông dành cho đất nước. Đồng thời tư tưởng đất nước của nhân dân bao trùm toàn bộ tác phẩm, cho thấy nhận thức đúng đắn và long biết ơn sâu sắc của ông đối với thế hệ đi trước. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và trữ tình, vận dụng linh hoạt chất liệu văn hóa dân gian, nhịp thơ linh hoạt góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Đất Nước là bài thơ giàu suy tư và triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, rất mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại được mở mang thêm tri thức, lại có thêm một cách nhìn nhận về Đất Nước trong chiều dài lịch sử. Từ đó cũng càng thêm yêu mến, tự hào với nơi mình được sinh ra và lớn lên.
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là bản nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong điệu hồn kháng chiến, là lời thúc giục tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.
Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là những gì bình thường, gần gũi nhất. Nó có trong cổ tích, ca dao, gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên một chân dung trọn vẹn về Đất Nước: Thân thương mà hào hùng, vất vả mà thủy chung.
Có thể coi đoạn thơ mở đầu là câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có tự bao giờ? Lịch sử lâu đời của đất nước Việt Nam được cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các triều đại phong kiến hay các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các truyền thống có từ xa xưa: Trầu cau (miếng trầu bây giờ bà ăn), Thánh Gióng (dân mình biết trồng tre mà đánh giặc… đến nền văn minh lúa nước sống Hồng cùng những phong tục, tập quán có từ lâu đời. Đó chính là Đất Nước được cảm nhận từ chiều sâu, từ bề dày của văn hóa và lịch sử.
Xuyên suốt toàn bộ bài thơ 2 chữ “Đất nước” luôn được viết hoa 1 cách trang trọng, lặp đi lặp lại tựa như 1 nốt chủ âm trong bản trường ca về non sông gấm vóc. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo lối trường ca, kể lể, liệt kê, khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này ông xứng đáng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của văn chương Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của người yêu văn chương suốt bấy nhiêu lâu nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay.
Đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là ở chỗ nhà thơ đã huy động toàn bộ vốn hiểu biết phong phú của mình trong những năm còn ngồi trên ghế nhà trường ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa và những trải nghiệm của chính nhà thơ trong những ngày tham gia phong trào học sinh sinh viên chống Mĩ ngụy ở thành phố Huế và cả những năm tháng bị tù đày trong nhà tù của Mĩ ngụy. Bằng cảm xúc chân thành và suy nghĩ sâu sắc, nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc những cảm nghĩ rất riêng của mình về đất nước, góp phần làm phong phú thêm hình tượng đất nước trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng. Đất không phải là tiếng nói của riêng nhà thơ mà là cảm nhận của một thế hệ thanh niên trong thời kì chống Mĩ về đất nước. Đây cũng là một sự thể hiện, một nét độc đáo trong giọng điệu của Nguyễn Khoa Điềm, đó là sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất chính luận.
Giọng điệu thơ trầm lắng, chất chứa suy tư. Vừa như bộc bạch giải bày vừa như tự nói với chính mình. Một giọng điệu như thế khiến hình tượng đất nước hiện lên vừa trang nghiêm thành kính, vừa gần gũi thân thiết.
Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp lại những trang thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có những bồi hồi, xao xuyến nơi sâu thẳm đáy lòng bởi những vần thơ sâu lắng đi vào lòng người nghe và người đọc.
Tiếp nối dòng mạch thơ ca yêu nước trong lịch sử văn học dân tộc, Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của đoạn trích Đất Nước này góp phần chứng tỏ tầm trí tuệ, sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành cùng thời đại kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.
Đọc những dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm ta hiểu hơn, yêu hơn, thương hơn đất nước của mình. Yêu hơn quá khứ, hiện tại và hy vọng nhiều ở tương lai. Ta lớn lên, tự tin vững bước trên đường đời để xây dựng đất nước hiện tại và tương lai xứng với tầm vóc của lịch sử của quá khứ. Ta thấy tự hào, thân thương và thiêng liêng hơn khi biết trong mình có một phần đất nước.
Bằng giọng điệu suy tư, ngôn từ mộc mạc, giản dị và sự linh hoạt, khéo léo trong việc sử dụng các thành ngữ, câu ca dao, các chất liệu văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được hết những vẻ đẹp của hình tượng đất nước. Đó là vẻ đẹp bình dị, thân thuộc nhưng lại vô cùng thiêng liêng. Chính cách nhìn nhận này đã góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú hơn về hình tượng đất nước trong văn học Việt Nam.
Đoạn thơ 9 câu, 85 chữ mà không hề có một từ Hán Việt nào. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu, cây tre, tóc mẹ, … Có “gừng cay muối mặn” cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong phủ, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: “tổng – phân – hợp”; mở đầu là câu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, khép lại đoạn thơ là câu “Đất Nước có từ ngày đó”.Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
Qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng chừng như đã ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân Việt, qua chiều sâu văn hóa, sinh hoạt Nguyễn Khoa Điềm đã có một phát hiện, một cảm nhận vô cùng sâu sắc: Đất Nước hiện lên trong thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt, trong cuộc sống sinh hoạt từ bao đời. Đất Nước hiện lên gắn liền với những phong tục tập quán với lối sống, nếp nghĩ, qua kho tàng văn học dân gian, qua bản sắc văn hoá… Đó là một Đất Nước không trừu tượng mà cụ thể, chứa đựng mơ ước, khát vọng, quan niệm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm hồn dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiện lên thật sống động, lung linh: trong cuộc sống, trong lao động và trong chiến đấu.
Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ mà không hề có một từ Hán Việt. Ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào về Đất Nước.
Bằng cách sử dụng sáng tạo các chất liệu dân gian, 9 khổ thơ đầu đã giúp Nguyễn Khoa Điềm không chỉ trả lời cho câu hỏi về cội nguồn, lịch sử hình thành Đất Nước, mà còn như gợi lại trong thẳm sâu tâm hồn người đọc những vẻ đẹp văn hóa phong tục đã được đắp bồi dưỡng nuôi trong hàng ngàn thế hệ, cũng từ đó, như một cánh cửa, đưa ta ngược dòng về với vẻ đẹp bình dị, xưa cũ của dân tộc.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với bản trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước này.
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất Nước đã có”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ” đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm lặng lẽ quan sát Đất Nước ở muôn mặt đời thường và trong quan hệ ruột rà, thân thuộc. Đất Nước là những gì bình dị nhất, gần gũi và thân quen nhất trong đời sống hằng ngày của mỗi con người việt nam ta: câu chuyện cổ tích bà kể, miếng trầu bà ăn, gừng cay, muối mặn, hạt gạo…
Thành công nghệ thuật của đoạn thơ là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không gian nghệ thuật riêng đưa ta vào thế giới gần gũi, mĩ lệ, giàu sức bay bổng của ca dao truyền thuyết, văn hóa dân gian. Đây là điểm đặc sắc của hình thức nghệ thuật thống nhất với nội dung tư tưởng.
Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy. Đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng xứng đáng là một khúc ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, đất nước và con người Việt Nam.
Từ những hình ảnh thân quen nhưng ẩn chứa chiều sâu kiến thức văn học dân gian cùng với giọng thơ ngọt ngào đoạn thơ như lời kể chuyện tâm tình, Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị hoá đất nước, đất nước hóa thân vào cổ tích, ca dao, vào cuộc sống hàng ngày. Tác giả đã có một cách cảm nhận mới vừa quen vừa lạ, vừa cụ thể vừa trừu tượng, vừa gần gũi vừa rất đỗi thiêng liêng…tạo nên sự xúc động sâu sắc. Điều đó nói lên thành công của tác phẩm cũng như những đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm đối với nền Văn học Việt Nam.
Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương, đất nước. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất nước, góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.
Nguyễn Khoa Điềm có điểm nhìn rất gần gũi, thân thuộc bình dị để miêu tả về Đất nước. Đến với bài thơ ta càng thêm thấu hiểu về quê hương Đất nước với những truyền thống, nét văn hóa đáng trân trọng và ngợi ca. Đất nước trong chúng ta chính là những tình cảm thân thương và gần gũi nhất.
9 câu đầu khép lại bằng tứ thơ khái quát về thời điểm hình thành Đất Nước: Đất Nước có từ ngày đó. Ngày đó vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy. Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ mà không hề có một từ Hán Việt. Ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào về Đất Nước.
Nguyễn Khoa Điềm xác định thời khởi thủy của Đất nước, bắt đầu từ miếng trầu, rồi lớn lên cùng hàng tre dân tộc. “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, một hình ảnh mộc mạc đậm chất dân gian lần nữa xuất hiện. Tưởng chừng những thứ xung quanh thân thuộc và bình dị ấy cứ mãi là điều hiển nhiên, chẳng ai ngờ bằng sự phát hiện của mình, Nguyễn Khoa Điềm khiến cho bao người lặng mình suy nghĩ. Vì đằng sau những câu chữ tự sự, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Mỗi dịp cúng giỗ, lễ Tết, miếng trầu – quả cau luôn xuất hiện trên bàn thờ tổ tiên, linh thiêng, trân trọng, trở thành biểu tượng cho tấm lòng thành con cháu gửi đến cha ông, hồn thiêng của tiền nhân. Bên cạnh đó, miếng trầu cũng chính là tình yêu e ấp thẹn thùng của đôi lứa thời xưa
Tóm lại, bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.
Đoạn thơ cho chúng ta có cái nhìn tổng quát về nguồn gốc hình thành Đất Nước theo sự chiêm nghiệm mang tính nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Để trong chúng ta, thế hệ trẻ hôm nay nhận ra Đất Nước có trong mỗi tâm hồn, hiện hữu trong đời sống văn hoá, phong tục, tập quán của nhân dân. Đất Nước còn là hiện thân của đời sống đấu tranh và lao động. Không chỉ thế, Đất Nước sẽ là tiếng hát đầu tiên ca ngợi lối sống nghĩa tình, đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Qua đoạn thơ trên nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của con người của nhân dân.
Như vậy, bằng khả năng vận dụng sáng tạo, kết hợp giữa hình thức thơ trữ tình – chính luận, thể thơ tự do cùng giọng thơ biến đổi linh hoạt và sự độc đáo khi sử dụng chất liệu văn hóa dân gian đa dạng qua những phong tục tập quán, lối sống, sinh hoạt, ca dao, dân ca, … Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không gian nghệ thuật vô cùng mới mẻ để làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi “Đất Nước của Nhân Dân”. Qua đó ta thấy hình tượng Đất Nước đã được khám phá ở nhiều các phương diện khác nhau về chiều sâu văn hóa, chiều rộng không gian cũng như chiều dài của thời gian. Với chính những trải nghiệm của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên một thi phẩm về đất nước, từ đó truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ cùng đứng lên “xuống đường” tham gia công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm cùng dân tộc, đồng thời làm thức tỉnh tình yêu quê hương luôn tồn tại trong tâm thức và trái tim của hàng triệu con người Việt Nam.
Vẫn biết rằng trường ca là một thể thơ dài, khó thuộc khó nhớ và người viết trường ca dễ bị sa vào lối liệt kê, kể lể. Trích đoạn “Đất Nước” nói riêng, trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung tuy không tránh khỏi tùy vết này nhưng với tất cả những gì Nguyễn Khoa Điềm đã mang lại cho bài thơ “Đất Nước” với tư tưởng đất nước của nhân dân, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm xứng đáng là những vần thơ của năm tháng không thể nào quên.
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là Đất nước của Nhân dân của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca chống Mỹ.
Đoạn trích “Đất Nước” ở chương V của trường ca “Mặt Đường khát vọng” thì đã khép lại nhưng những dư âm vẫn luôn gợi mở nhiều suy tư trong mỗi chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm từ tình cảnh nước nhà, đã viết nên bài thơ để thức tỉnh ý thức của tầng lớp trẻ miền Nam. Ông đã đưa vào bản trường ca, đặc biệt là đoạn trích Đất Nước những gì đẹp nhất và tinh túy nhất của nghệ thuật, của nội dung và giá trị về tư tưởng. Đó quả thực là sự lao động miệt mài dày công sức và đáng trân trọng. Văn học Việt Nam sẽ còn ghi tên Nguyễn Khoa Điềm, như một người đầu tiên đem tư tưởng Đất Nước – Nhân Dân với tất cả thế hệ người đọc và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ. Một hồn thơ nặng lòng với Đất Nước, một cây bút tài hoa cùng những khám phá sâu sắc mới mẻ về tư tưởng Đất Nước – Nhân Dân đã làm những áng văn của Nguyễn Khoa Điểm trở thành một kiệt tác nghệ thuật bất hủ.
Advertisement
Bằng cách đề cao vai trò của nhân dân lao động với đất nước, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa làm rõ tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, khẳng định vai trò và sức mạnh của nhân dân đối với lịch sử và đất nước. Đó là cả một truyền thống lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc. Tác phẩm đã tạo nên những rung động âm vang trong lòng người đọc chính là nhờ những cảm xúc chân thành từ sự trải nghiệm của bản thân mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thể hệ đối với đất nước. Nguyễn khoa Điềm đã góp thêm một thành công cho dòng thi ca về đất nước, làm sâu sắc thêm những nhận thức về đất nước và nhân dân bằng tiếng nói nghệ thuật đậm đà chất dân gian.
Bài thơ tuy có chỗ còn dàn trải, nhưng ý tưởng đẹp, cảm hứng và ngôn ngữ thơ độc đáo. Nó đã khơi dậy tình yêu nước, niềm tự hào dân tộc, trách nhiệm và khát vọng công dân đối với Đất Nước trong mỗi chúng ta:
Như vậy, tư tưởng đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại đã được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một cách bình dị, sâu sắc mà đầy chất triết lý trong tác phẩm. Với thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ sẽ khiến cho Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm sẽ mãi lưu dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc như một bài ca không bao giờ quên. Và tác giả cũng đã góp phần làm phong phú hơn tư tưởng đất nước của nhân dân trong thơ ca thời kỳ chống Mỹ.
Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ca ngợi tâm hồn Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên Đất Nước đã được Nhân Dân sáng tạo nên. Nhân Dân là chủ nhân của Đất Nước. Bài thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về Đất Nước và Nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương, ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng Đất Nước.
( Những người đi tới biển, Thanh Thảo)
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.
Kết lại, những điểm mới trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm đều xuất phát từ tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ Cách mạng ấy là tư tưởng Đất Nước của dân, do dân và vì dân là tư tưởng chủ đạo dẫn mạch cảm xúc đi xuyên suốt bài bằng những khám phá mới trên nhiều bình diện văn hóa, lịch sử, địa lý, nguồn gốc ra đời, quá trình hình thành phát triển Đất Nước. Đặc biệt với giọng thơ thủ thỉ tâm sự, ngọt ngào bộc lộ những cảm xúc chân thành, thiết tha phối hợp với cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian nhuần nhuyễn, sáng tạo đã làm cho bài thơ trở thành tác phẩm viết về đề tài đất nước tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.
Với một cái nhìn giàu suy tư, tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra được tô đậm là cảm hứng chủ đạo. Tất cả được biểu đạt bằng một giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Nghệ thuật sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất liệu văn hoá và văn học dân gian đem vào câu thơ hiện đại tăng thêm sức hấp dẫn của đoạn thơ.
Bằng phong cách triết luận, trữ tình sâu sắc Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một Đất Nước với dáng hình mới mẻ, khác hẳn so với các nhà thơ cùng thời, một Đất Nước nồng đượm phong vị của chất liệu văn hóa dân tộc, của hơi thở lịch sử kiêu hùng. Một Đất Nước gần gũi và chân thực, các yếu tố cấu thành có sự liên kết chặt chẽ, văn hóa và lịch sử vừa tách rời vừa thống nhất cùng với nhân dân làm nên Đất Nước – hai tiếng yêu thương.
Những câu thơ như thế thật là một sự phát kiến bất ngờ, khiến người đọc phải giật mình. Nó không chỉ là một sản phẩm của một tư duy sắc sảo. Mà trước hết nó là sản phẩm của một tình yêu, một tấm lòng Nếu không có sự trân trọng với tất cả những gì mà tổ tiên chắt chiu, chi chút, gìn giữ trong mấy nghìn năm qua, thì mọi thứ triết luận dù sắc sảo đến đâu cũng không thể có được những câu thơ có thể đánh động vào tầng sâu của tâm linh người đọc đến thế được. Mối giao kết giữa yếu tố trữ tình và yếu tố triết luận trong mọi suy cảm thi ca chân chính chẳng phải là tuân theo cái cơ chế đó sao?
Hoàn Cảnh Sáng Tác Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm
1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm
Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943, quê Thừa Thiên – Huế, tốt nghiệp Đại học ngành Ngữ văn (Đại học Sư phạm Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng.
Năm 1955 ra Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Sau khi tốt nghiệp khoa văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông về Nam hoạt động trong phong trào sinh viên, học sinh thành phố Huế; xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo, làm thơ,… cho đến 1975.
Sau ngày thống nhất đất nước, ông tiếp tục hoạt động chính trị và văn nghệ ở Thừa Thiên – Huế. Ông tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III….
Ông thuộc thế hệ nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ những năm chống Mĩ,
Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân.
2. Hoàn cảnh ra đời bài thơ Đất nướcBài thơ “Đất nước” nằm phần đầu của chương năm trường ca “Mặt đường khát vọng”.
“Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974. Đó là những năm tháng nhân dân miền Nam kiên cường chống đế quốc Mĩ và tay sai. “Mặt đường khát vọng” là một trong những bản trường ca lớn của thơ ca chống Mĩ viết về đất nước, nhân dân. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng tạm chiến miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về đất nước, hướng về nhân dân, ý thức được với xứ mệnh của thế hệ mình đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của dân tộc.
Hình thức đoạn thơ cũng như cả bài thơ là hình thức tự do phóng túng, thoải mái tạo lên lối tư duy hiện đại và tính triết luận của tác phẩm trả lời cho các câu hỏi.
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng. Giữa yếu tố chính luận và màu sắc trữ tình. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình như là trò truyện của anh với em tạo nên âm vang ngân nga sâu lắng thiết tha và trang trọng về đất nước nhân dân. Tác phẩm sử dụng phong phú sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc, phong phú tập quán, huyền thoại, huyền sử, ca dao, tục ngữ tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng. Đất nước thật bình dị gần gũi mà vô cùng thiêng liêng, sâu xa, bay bổng, lãng mạn và lấp lánh sắc màu ca dao, cổ tích.
“Đất nước” góp phần thổi lên khí thế hào hùng tham gia kháng chiến của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam nói riêng, thế hệ thanh niên Việt Nam nói chung hòa nhịp vào cuộc chiến đấu hào hùng sôi nổi của toàn dân tộc.
3. Hoàn cảnh sáng tác Đất nướcBài thơ Đất nước được ra đời bắt nguồn từ cảm hứng bất tận là tình yêu quê hương đất nước, tự hào về những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc.
– Hoàn cảnh sáng tác Đất nước: Đoạn trích nằm ở phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm đồ sộ này được ông viết ở chiến khu Trị Thiên năm 1971 trong những năm tháng chiến tranh chống Mĩ đầy ác liệt, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trực tiếp cầm súng chiến đấu trên chiến trường. “Mặt đường khát vọng” với ý nghĩa thức tỉnh tuổi trẻ, bồi đắp thêm tình yêu quê hương đất nước, nhân dân, ý thức về trách nhiệm của bản thân cần hòa cùng cuộc chiến đấu của dân tộc, tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng nhân dân.
– Nội dung khái quát đoạn trích: Tác phẩm là cách khám phá đất nước trên các bình diện khác nhau của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đặc biệt làm nổi bật lên tư tưởng đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
4. Hoàn cảnh sáng tác bài Đất nướcTác phẩm viết trong khoảng thời gian từ 1948 đến 1955. Bài thơ là sự tổng hợp của những sáng tác Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít tinh (1949) và Đất nước (1955). Đây là thời gian ông trải nghiệm, trưởng thành cùng Đất Nước trong kháng chiến chống Pháp lần 2.
Đêm 19.12.1946, thực hiện quyết định của Trung ương Đảng, tiếng súng giết giặc của Hà Nội và các thành phố có quân Pháp chiếm đóng đã nhất loạt phát nổ, mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp. Cuộc chiến đấu 57 ngày đêm ở Thủ đô và Liên khu 1 đã thắng lợi (tiêu diệt và bắt sống hơn 2.000 tên địch, phá huỷ 22 xe tăng và xe thiết giáp, 31 xe vận tải, bắn rơi 1 máy bay và bắn hỏng 7 chiếc khác, bắn chìm 2 ca nô); đêm 17.2.1947, trước sự bất ngờ của địch, Trung đoàn Thủ đô tiến hành cuộc rút quân bí mật, quả cảm vượt sông Hồng và sông Đuống ra vùng tự do thuộc tỉnh Phúc Yên một cách an toàn. Để lại “Hà Nội cháy khói lửa ngợp trời”, cùng với những người đồng chí, chàng thanh niên trí thức trẻ Nguyễn Đình Thi hăm hở bước vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Nhưng nỗi nhớ về Hà Nội dường như vẫn luôn luôn da diết.
Cuộc kháng chiến ngày càng gian khổ, quyết liệt. Nguyễn Đình Thi cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác đã đi cùng bộ đội tham gia các chiến dịch ở đường số 4, Trung du, Hòa Bình v.v… Cuối 1954, sau chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, tác giả của “Sáng mát trong như sáng năm xưa” và “Đêm mít tinh” về điều trị bệnh ở một xóm ven bờ sông Cầu (thuộc huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên). Tại đây, Nguyễn Đình Thi sau quá trình 7 – 8 năm ròng rã – nay mới có điều kiện viết tiếp tác phẩm đã được thai nghén rất lâu của mình là bài thơ “Đất nước”.
Bài thơ “Đất nước” được hình thành trong một quãng thời gian dài: hầu như suốt cuộc kháng chiến chống Pháp (1948-1955) bài thơ đã miêu tả một không gian rộng lớn toàn đất nước. Lần đầu tiên bài thơ được đưa vào tập “…Chiến sĩ”(1958). Bài thơ được tổng hợp từ một số bài thơ khác: “Sáng mát trong như sáng năm xưa”(1948), “Đêm mít tinh”(1949). Đây là bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi nói riêng và thơ kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ mang rõ phong cách của Nguyễn Đình Thi. Chủ đề bao trùm của bài thơ “Đất nước” là lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết, ý thức độc lập tự chủ, lòng tự hào về đất nước và nhân dân anh hùng từ trong đau thương nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quật khởi vùng lên chiến thắng huy hoàng. Hoàn cảnh sáng tác ấy giúp Nguyễn Đình Thi, một nhà thơ có hồn thơ suy tư sâu lắng và dạt dào cảm xúc, tạo dựng lên được một bức chân dung đất nước thật nên thơ, nên họa mang tính chất khai quật, vừa có tính chiều sâu truyền thống, vừa có tầm cao thời đại: có sức quật khởi mãnh liệt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Advertisement
Có thể nói mặc dù quá trình viết bị đứt đoạn liên tục, song thời gian viết dài đã vô tình tạo nên chiều sâu của tác phẩm. Trải dài suốt quá trình chống Pháp, bài thơ mang đậm sự trải nghiệm của tác giả, đầy đủ đắng cay ngọt bùi. Chính hoàn cảnh sáng tác đặc biệt đã giúp bài thơ mang đậm hồn của Đất nước. Vừa thể hiện được nỗi đau của nhân dân, lại làm nổi bật được niềm tự hào của dân tộc. Thi phẩm được viết từ sự tổng hợp nâng cao các mảng sáng tác trong những thời điểm khác nhau nhưng người đọc không hề nhận thấy dấu vết của sự chắp vá, lắp ghép mà cảm nhận được mạch thống nhất bởi tác giả viết bằng cảm xúc nhất quán về đất nước, con người Việt Nam.
10 Phân Tích Bài Thơ “Khúc Hát Ru Những Em Bé Lớn Trên Lưng Mẹ” Của Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 10
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Những câu thơ ấy vang lên làm ta nhớ ngay đến một tác giả là một nhà thơ trữ tình chính luận thời kháng chiến chống Mĩ. Không ai khác đó chính là Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ thời chống Mĩ cứu nước. Giọng thơ của Nguyễn Khoa Điềm không cầu kì, rất giản dị, thanh thoát, nhưng cũng thấm đẫm triết lí sâu sắc. Ông nổi tiếng với rất nhiều bài thơ và ta không thể không nhắc đến bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
Bài thơ được sáng tác năm 1971 khi tác giả đang công tác ở chiến khu miền tây Thừa Thiên. Bài thơ kể về cuộc sống gian nan vất vả ở chiến khu và tình cảm thắm thiết mà người mẹ Tà-ôi dành cho con với mong muốn con lớn khôn khỏe mạnh giúp ích cho dân tộc.
Tình mẫu tử mãi mãi là tình cảm thiêng liêng và bất diệt nhất. Đúng như mọi người từng nói, đó là thứ tình cảm dùng tiền cũng không thể nào mua được. Để khai thác đề tài này nhiều tác giả đã viết rất sâu sắc và cảm động về tình mẫu tử như bài “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng,…
Để nối tiếp thành công ấy Nguyễn Khoa Điềm cũng khai thác về đề tài này nhưng lại biến hóa hơn một chút là tình mẫu tử trong những năm tháng chiến tranh. Tình cảm ấy của người mẹ Tà-ôi thật sự khiến chúng ta xúc động. Mở đầu bài thơ là một hình ảnh cảm động về người mẹ dân tộc Tà-ôi địu con trên lưng để lên rừng làm rẫy nuôi bộ đội phục vụ kháng chiến
“Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:”
Chao ôi câu thơ mở đầu nghe sau mà thương quá “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi”. Thay vì được ngủ trên niệm trên chiếu êm thì những em bé này phải ngủ vật và vật vựa trên bờ lưng “gầy nhấp nhô” của mẹ. Mẹ của em bé phải “giã gạo” “nuôi bộ đội”. Hàng loạt những hình ảnh gợi tả được Nguyễn Khoa Điềm miêu tả hết sức chi tiết.
Từ hình ảnh mẹ “giã gạo”, “mồ hôi mẹ rơi”,”vai mẹ gầy”,… cho thấy biết bao sự cực khổ và gian lao mà người mẹ dân tộc Tà-ôi đang gánh trên đôi vai gầy ấy. Mẹ có vất vả nhưng vẫn thương em bé, vẫn địu con trên lưng cùng mẹ, thứ tình cảm ấy quý giá và thiêng liêng. Dường như em bé cu Tai cũng cảm nhận được sự vất vả của mẹ:
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”
Hiểu được sự vất vả của mẹ nên em bé ngủ ngoan trên lưng mẹ. Với hình ảnh tả thực ấy Nguyễn Khoa Điềm đã cho thấy sự gắn bó mật thiết của hai mẹ con. Hơi thở của em đều nhịp theo tiếng giã gạo của mẹ. Quả thật nếu ai từng chứng kiến cảnh giã gạo giữa ban trưa như thế nào thì mới cảm nhận hết nổi vất vả mà người mẹ Tà-ôi đang làm ngày hôm ấy.
“Mồi hôi mẹ rơi má em nóng hỏi
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”
Với ngôn từ dễ hiểu Nguyễn Khoa Điềm đã chọn những hình ảnh tiêu biểu nhất của động tác giã gạo để đưa vào bài thơ. Làm hình ảnh em bé cu Tai và mẹ trở nên dễ thương và đồng điệu. Em bé ngủ say sưa và dường như cũng cảm nhận được “giọt mồ hôi mẹ rơi” trên má em nóng hổi. Mẹ vất vả nhưng mẹ vẫn rất thương thương yêu em bé. Lời ru của mẹ tha thiết và đầy trìu mến dành cho đứa con thơ, tiếng ru như dòng suối mát tinh khiết vỗ về em giữa ban trưa nơi núi rừng ôi bức:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Người mẹ nào mà chẳng thương con, nhưng đặc biệt người mẹ Tà-ôi qua ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm lại càng yêu con gấp bội. Những từ “ơi” là những từ diễn tả cảm xúc rất tha thiết và chân thành. Mẹ thương con và mẹ cũng mong con có ước mơ về một tương lai tươi sáng. Mong “mai sau con lớn vung chày lún sân”. Mong con khỏe mạnh trưởng thành, giúp ích cho quê hương đất nước. Người mẹ dân tộc miền núi vừa địu con trên lưng vừa làm rẫy tỉa bắp, hình ảnh thật đẹp và ý nghĩa:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka–lưi
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi.
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng
Lời vỗ về từ trái tim, lời yêu thương nhắn gửi trong trái tim người mẹ chân thành và tha thiết. Mong con hãy ngủ ngoan, ngủ yên giấc cho mẹ an tâm làm việc. Với những cảm xúc da diết tác giả cho thấy được sự vất vả của người mẹ Tà-ôi. Mẹ đang tỉa bắp trên núi nhưng “lưng núi to mà lưng mẹ nhỏ”. Một tấm lưng gầy mòn nhỏ nhắn của người mẹ dân tộc giữa rừng núi mênh mông với cánh đồng ngô bao la rộng lớn.
“ Em ngủ cho ngoan đừng làm mẹ mỏi”. Câu hát ru nhưng giống như một lời dạy bảo, bé cu Tai ơi ngủ ngoan cho mẹ làm việc bởi “mặt trời của bắp thì nằm trên đồi”. Và em chính là “mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”. Với nghệ thuật điệp ngữ “mặt trời” như muốn nhấn mạnh về một tương lai tươi sáng, tạo thêm sức mạnh niềm tin chiến thắng cho cuộc đấu tranh gian lao phía trước.
Cách nói đầy ẩn dụ ấy cho thấy được tình cảm của mẹ dành cho con sâu sắc biết dường nào. Bằng ngòi bút tinh tế và sự quan sát cùng với trải nghiệm nơi núi rừng ấy đã giúp bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm trở nên thu hút và rất chân thật. Người mẹ Tà-ôi chịu đựng mọi gian khổ, mọi vất vả phải vừa địu con vừa làm rẫy. Nhưng tất cả điều ấy chỉ với mong muốn con sau này có được cuộc sống ấm no. Những dòng tâm tình và những ước mơ ấy khiến bao người xúc động và đồng cảm với người mẹ dân tộc miền núi cao này:
-Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…
Với việc sử dụng nghệ thuật điệp ngữ được Nguyễn Khoa Điềm thường xuyên sử dụng như một lời tâm tình, một lời ru yêu thương ngọt dịu. “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi”. Mong con an giấc ngủ bình yên, con ngủ cho ngoan để mẹ an tâm mà làm rẫy. Lời hát ru nghe sao mà yêu thương và tha thiết đến thế. Những từ cảm thán “ơi”, “hỡi” để diễn tả cảm xúc và tình yêu thương sâu sắc của người mẹ dành cho con. Người mẹ Tà-ôi càng thương con bao nhiêu thì thương làng bấy nhiêu”.
Thương cho con phải chịu cực chịu khổ ngay khi còn thơ bé ở trên lưng mẹ. Mẹ lại càng thương cho “làng’ vì cái “đói” cái khổ đang hoành hành. Chiến tranh đã gây ra bao thiệt hại về mùa màng, về công sức và cả tiền của. Vốn dĩ miền núi cao đã chịu rất nhiều bất lợi về điều kiện phát triển kinh tế, vậy mà còn phải gánh chịu chiến tranh.
Mẹ chỉ còn mong mỏi vào giấc mơ của con, mong mỏi vào đứa con thơ có được một cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn bây giờ. Người mẹ dân tộc Tà-ôi ấy không chỉ địu con giã gạo, đi núi bẻ bắp mà người mẹ ấy còn địu con tham gia kháng chiến.
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để giành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.”
Sự lặp lại hai câu thơ “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi”, “Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ” đã tạo nên âm điệu ngân nga, thấm dần vào người đọc một cảm xúc thân thương. Con cùng mẹ băng suối, vượt ngàn, đạp rừng xông tới. Cả nhà, cả làng, cả nước cùng đánh giặc. Người mẹ ấy không yếu ớt, mà là một người mẹ dũng mãnh có ý chí và nghị lực kiên cường rất đáng được ngưỡng mộ.
Dù trai hay gái đều tham gia chiến đấu “Anh trai cầm súng chị gái cầm chông”. Mọi người không phân biệt giới tính và với một tình yêu sâu nặng dành cho quê hương, đất nước. Nhịp thơ sôi nổi, giọng thơ thôi thúc hai câu thơ cuối đoạn như một lời thúc giục chiến đấu vì tương lai tươi sáng phía trước.
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
Cách ngắt nhịp 4/4 khiến hai câu thơ cuối thêm sinh động mà cũng trầm lắng những suy tư. Mong em phải mạnh mẽ cùng với mẹ vào chiến trường. Mong em được người mẹ Tà-ôi truyền lửa cách mạng ngay từ khi còn ở trên lưng mẹ. dù em có đói khổ em vẫn hăng say vào “Trường Sơn” tham gia kháng chiến. Khổ thơ cuối là lời ru mang nặng nỗi tâm tình suy tư và hoài bão lớn lao của người mẹ dân tộc miền núi:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ thấy được Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Điệp khúc: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi, Mẹ thương a-kay…, Con mơ cho mẹ…, Mai sau con lớn… đã thể hiện khát vọng cháy bỏng trong lòng người mẹ. Mẹ mong mỏi sẽ bắt gặp được lí tưởng của Đảng mà giác ngộ ra con đường cách mạng đúng đắn. Bào thơ là cả một bầu trời tâm tình và mơ ước cháy bỏng của người mẹ dành cho con. Lúc nào cũng “con mơ cho mẹ” và “mai sau con lớn”,…
Con là tài sản quý nhất của mẹ, tình mẫu tử vốn dĩ là thiêng liêng và cao cả. Tất cả những gì mẹ làm hôm nay cũng vì tương lai của con và cũng là tương lai của đất nước. với những việc làm ý nghĩa ấy, người mẹ Tà-ôi xứng đáng là đại diện cho người mẹ Việt Nam anh hùng. Với giọng thơ của Nguyễn Khoa Điềm sâu sắc và trầm lắng dường như đã tạo nên một tiếng vang lớn trên bầu trời văn học nghệ thuật thời kháng chiến chống Mĩ.
Với giọng thơ nhẹ nhàng, ngân vang và sâu lắng dường như bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm đã ghi dấn ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng nghệ thuật điệp ngữ, hình ảnh gợi tả,tính từ cảm thán,… càng làm giọng điệu thơ thêm ngọt ngào.
Qua bài thơ trên, Nguyễn Khoa Điềm muốn gửi gắm hình ảnh người mẹ dân tộc Tà-ôi địu con trên lưng vất vả nuôi bộ đội phục vụ kháng chiến với mong mỏi đất nước hòa bình, tự do. Với ước mơ đẹp và cao cả ấy, những người mẹ nơi đây xứng đáng là biểu tượng cho người mẹ Việt Nam anh hùng và là tấm gương sáng chói cho muôn đời sau!
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 9Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 10
Từ những ngày còn bên nôi, ta đã được sống trong bầu không khí êm đềm, mát lành với lời ru ầu ơ của bà, của mẹ. Tiếng hát ấy đưa ta vào giấc ngủ an lành của tuổi thơ, nâng giấc ta, nuôi ta trưởng thành. Đó là những thanh âm trong trẻo vang động sâu sắc tâm hồn ta. Nó không chỉ cho ta những dấu ấn đầu tiên về quê hương xứ sở mà còn găm chặt trong tim ta tình yêu của mẹ thiết tha gửi gắm.
Khúc hát ru của bà mẹ Tà-ôi trong thi phẩm Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ru da diết, lắng đọng. Nó mang đến cho ta những cảm nhận sâu đậm về tình yêu con của người mẹ vùng chiến khu Trị Thiên trong những năm chống Mĩ ác liệt.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ không chỉ là bài thơ mà còn là lời ru dành cho những em bé lớn lên bằng nhịp đưa nôi của lưng mẹ. Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc cho bài thơ này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã đặt tựa đề là Lời ru trên nương. Chính những lời ru đã làm thành nên cấu tứ của bài thơ, dẫn dắt vào một thế giới mang đậm bản sắc riêng của người Tà-ôi. Tình yêu ngân lên thành một điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày của mẹ :
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Câu thơ vừa như lời hát trìu mến của người mẹ, vừa như lời nhắn nhủ đầy yêu thương của nhà thơ dành cho em bé. Nhịp thơ nhè nhẹ tựa như tiếng hát êm đềm vang xa giữa núi rừng bao la. Hình ảnh ém bé Tà-ôi “ngủ trên lưng mẹ” êm đềm biết bao, nó khiến ta bồi hồi nhớ lại những câu thơ về người mẹ Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp của nhà thơ Tố Hữu :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Cả hai bà mẹ đều giống nhau ở công việc, giống nhau ở sự chăm sóc, chở che cho con nhưng nếu người mẹ Việt Bắc hiện lên trong hồi tưởng, thì người mẹ Tà-ôi được dựng lên giữa hiện thực :
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng.
Nhịp thơ 3/4 đều đều ở hai câu thơ tựa như nhịp đưa à ơi trên cánh võng. Công việc của mẹ là giã gạo để nuôi bộ đội kháng chiến nhưng chính trong công việc đó người mẹ đã thể hiện tình yêu dành çho con. Từ “nghiêng” lặp lại hai lần vừa tạo nhịp điệu cho câu thơ vừa có chất tạo hình đồng thời diễn tả chân thực hình ảnh người mẹ vừa giã gạo vừa địu con trên lưng. Nỗi nhọc nhằn hiện hữu cả nơi mẹ và con :
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Công việc của mẹ khiến em bé cũng phải vất vả, nhưng em được mẹ bù đắp bằng tình yêu thiết tha. Giấc ngủ “nghiêng” của con có mẹ chở che, nâng giấc bằng “vai gầy” làm gối, bằng “lưng đưa nôi” và trái tim cất vang lời ru. Đó là lời ru được ngân lên từ tình yêu thương bao la của mẹ.
Trong mọi công việc, mọi hoàn cảnh, tình yêu tha thiết ấy vẫn vẹn nguyên, ấm áp. Dù là khi giã gạo ở nhà hay tỉa bắp trên núi Ka-lưi nắng cháy, trong tim mẹ vẫn ngân vang khúc hát ru cho a-kay, bởi a-kay chính là nguồn sống, là động lực của mẹ:
Mặt trời của bắp thì nằm trên núi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ được tác giả sử dụng thật đắc địa, mang lại những rung cảm thẩm mỹ sâu sắc, thể hiện tình mẹ con cảm động, thiêng liêng. Con là mặt trời soi rọi, sưởi ấm lòng mẹ, là nguồn vui, hạnh phúc của đời mẹ. Hạt bắp lớn lên nhờ hơi ấm của mặt trời. Mẹ vui sống bằng nguồn sáng của mặt trời trên lưng – đứa con yêu của mẹ. Lời thơ nhịp nhàng, dịu dàng như tình mẹ êm đềm ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai.
Tình yêu con tha thiết của người mẹ Tà-ôi còn lắng sâu trong những ước mơ gửi gắm nơi con được thể hiện qua những lời ru trực tiếp. Sự dịu dàng, âu yếm trong những lời ru tha thiết cho ta cảm nhận sâu sắc tấm lòng của mẹ dành cho a-kay :
Ngủ ngoan a-kay ơi
Ngủ ngoan a-kay hỡi
Những lời ru nhẹ nhàng thể hiện sự nâng niu, gượng nhẹ của mẹ đối với giấc ngủ trẻ thơ của con. Tình yêu nồng ấm ấy trải dài xuyên suốt toàn bộ bài thơ, qua những lời ru được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc mỗi lúc một tha thiết hơn. Yêu con, thương con, bao ước mong của mẹ gửi gắm vào con.
Đó chính là nguồn động lực giúp mẹ vượt qua những gian nan, thử thách, những khó khăn, nhọc nhằn để sống, lao động và tham gia kháng chiến. Những ước mong ấy giản dị, mộc mạc, phù hợp với tâm thức của người mẹ Tà-ôi và gắn liền với những ước mong dành cho bộ đội, cho kháng chiến :
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Mẹ mong con trở thành một chàng trai khỏe mạnh, có thể “vung chày lún sân”, có thể “phát mười Ka-lưi” Trong ước mơ ấy thấp thoáng bóng dáng và sức mạnh của những anh hùng trong sử thi, thần thoại đồng thời hội tụ cả sức mạnh của dân tộc từ quá khứ đến hiện tại gắn với cuộc chiến đấu trường kì của đất nước. Đặc biệt, ước mơ trong lời ru cuối của mẹ mới đẹp làm sao:
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Đó là ước mơ về ngày thống nhất non sông. Yêu con, niềm mong mỏi lớn nhất của người mẹ là con được làm người tự do. Mẹ lớn lên trong đói nghèo, nô lệ, trưởng thành trong gian khổ chiến tranh, mẹ hiểu lắm giá trị của tự do. Vì thế, mẹ không mong gì hơn là con được trở thành công dân của một đất nước tự do, độc lập. Tình yêu con của mẹ thật sâu sắc biết bao, lớn lao biết bao.
Khởi nguồn của mọi hành động cao cả bắt đầu từ tình yêu bình dị nhất. Điểm xuất phát của lời ru con chính là tấm lòng mẹ thương con vô bờ bến, được biểu hiện một cách bình dị mà sâu nặng. Âm vang của tình yêu đó cất lên thành lời ru, được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận và thể hiện trong những vần thơ giản dị mà sâu sắc. Khúc hát ru ấy sẽ còn mãi ngân vang trong trái tim và tâm hồn của những người con, để cảm nhận được những cung bậc yêu thương của tình mẹ tha thiết, ấm nồng.
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 9
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 8Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 9
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Huế, ông là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Sáng tác của ông bao gồm một số tác phẩm tiêu biểu như tập thơ Đất và khát vọng, Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng,… Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, thơ của ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước về nhân dân, về những con người bình dị không ai nhớ mặt đặt tên đã làm ra đất nước.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác ở chiến khu phía Tây Thừa Thiên vào ngày 25/3/1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang dần đi đến thắng lợi, tuy nhiên đời sống chiến đấu của quân dân ta còn nhiều khó khăn gian khổ.
Bài thơ được in trong tập Đất và khát vọng (1984), là sự kết hợp giữa thể thơ tám chữ và một số câu 7 chữ, âm điệu của bài thơ nhẹ nhàng, như ôm ấp, vỗ về của một lời ru, chính giọng điệu trữ tình này đã thể hiện được tình cảm thiết tha trìu mến của người mẹ đối với con, đối với cách mạng, với đất nước, quê hương.
Bài thơ là những lời ru thiết tha trìu mến, những lời ru như thủ thỉ, tâm tình như vỗ về ôm ấp, giấc ngủ của em cu Tai và cũng là giấc ngủ của biết bao nhiêu đứa trẻ lớn trên lưng mẹ. Nhưng điều đặc sắc hơn cả đó là thông qua những lời ru dịu êm, thiết tha, trìu mến ấy đã làm hiện dần lên hình ảnh người mẹ Tà-ôi. Người mẹ hiện lên trong biết bao công việc trong cuộc sống lao động thường ngày.
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:”
Đầu tiên là hình ảnh người mẹ Tà-ôi hiện lên trong công việc giã gạo nuôi bộ đội kháng chiến, đây là một công việc hết sức vất vả và nặng nhọc, để có thể làm ra được hạt hạo trắng ngần, thơm tho những người dân đã phải đổ biết bao mồ hôi công sức. Người mẹ Tà-ôi ở đây trong công việc giã gạo không chỉ là làm ra hạt gạo nuôi sống chính bản thân mà còn là những hạt gạo được chắt chiu trân trọng để nuôi bộ đội, đóng góp cho cuộc kháng chiến sắp đi đến thắng lợi của nhân dân ta.
Như vậy, chỉ trong một công việc tưởng chừng như hết sức bình dị này thì người mẹ Tà-ôi đã hiện lên với một hình ảnh lớn lao, cao cả khi biết đóng góp những thứ vật chất nhỏ bé cho kháng chiến, trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng, điều đó là đáng quý biết bao. Hình ảnh “nhịp chày nghiêng” và “giấc ngủ em nghiêng” cho ta cảm giác dường như cả hai mẹ con đều cùng chung một nhịp, đó là nhịp chày giã gạo, nhịp điệu lao động của người mẹ.
Giấc ngủ của em cu Tai luôn gắn liền với công cuộc lao động vất vả, chịu thương chịu khó, tần tảo sớm trưa của mẹ mình. Đặc biệt có những chi tiết tác giả dùng đặc tả nỗi vất vả của người mẹ như “Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi”, ta như cảm nhận được những giọt mồ hôi như mưa, mặn đắng nỗi vất vả nhọc nhằn mà cả chính em cu Tai cũng cảm nhận được.
Hình ảnh “Vai mẹ gầy” như đã bộc lộ cả cái cảm nhận của những đứa trẻ trong ngủ trên lưng mẹ, cũng là tình thương trước cái nỗi vất vả, nhọc nhằn, kham khổ, vắt kiệt sức lực khiến người mẹ phải gầy gò, lam lũ. Người mẹ ấy hy sinh nhiều vô kể, mang nặng đẻ đau, đôi tay tảo tần giã gạo, đôi làm chiếc gối, tấm lưng làm chiếc nôi và hát ru con ngủ bằng cả trái tim yêu thương tràn đầy.
Hơn thế nữa, người mẹ cũng là một trong những người dân tham gia lao động sản xuất ở chiến khu, đang bám từng tấc đất để vừa lao động tăng gia sản xuất, vừa phục vụ kháng chiến. Nguyễn Khoa Điềm đã gợi lên hình ảnh ảnh người mẹ thông qua những câu thơ sau:
” Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,”
” Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.”
Ở đây, nhà thơ đã vận dụng rất thành công thủ pháp tương phản để làm nổi bật sự lớn lao mênh manh của núi rừng, đồng thời làm nổi bật được hình ảnh vất vả tảo tần của người mẹ. Tấm lưng mẹ tuy nhỏ nhắn nhưng bền bỉ thậm chí còn kiêu hãnh hơn lưng núi, bởi trên lưng mẹ có “mặt trời” là người con yêu thương, đây là hình ảnh ẩn dụ gợi lên thật sâu sắc, cảm động tình mẹ yêu con. Con là nguồn sống, là năng lượng tiếp sức cho mẹ trong công việc lao động vất vả, cũng giống như ánh mặt trời là nguồn sống, chiếu sáng cho cây bắp được sinh tồn và phát triển.
Đặc biệt hơn hết, ta còn thấy hình ảnh của người mẹ hiện lên trên chiến trường, hình ảnh này là một sự phát triển tất yếu của người mẹ từ vị trí hậu phương, phục vụ kháng chiến thầm lặng, thì hôm nay mẹ tham gia vào cuộc kháng chiến một cách mạnh mẽ hơn, trực tiếp hơn, mẹ giúp bộ đội “chuyển lán”, “đạp rừng”, “giành trận cuối” với quân Mỹ trong kháng chiến.
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.”
Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến ngày càng trở nên ác liệt hơn, mọi tầng lớp, lứa tuổi đều đứng dậy cầm vũ khí để đấu tranh, thì người mẹ cũng giã từ góc sân giã gạo, ngọn đồi tỉa bắp để tham gia trực tiếp và cuộc kháng chiến, mẹ đi “chuyển lán”, mẹ đi “đạp rừng” vốn là những công việc còn khó khăn, gian khổ gấp trăm lần.
Nhưng người mẹ ấy vẫn địu đứa con của mình ở trên lưng, mẹ đi đến đâu giấc ngủ của con theo tới ấy, mẹ cùng con đi “giành trận cuối”, đi ra chiến trường, băng rừng lội suối vượt cả Trường Sơn. Có thể thấy người mẹ và đứa con luôn gắn bó song hành cùng nhau ở mọi hoàn cảnh, nương tựa vào nhau cùng chiến đấu với niềm tin một ngày mai cách mạng giành chiến thắng.
Hình ảnh người mẹ Tà-ôi hiện lên trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm thật thú vị và đặc sắc, tiêu biểu cho những người phụ nữ anh hùng chịu thương chịu khó, phục vụ cho cách mạng, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu thương con sâu sắc luôn tràn đầy trong trái tim ấm nóng. Trong tâm hồn người mẹ luôn tồn tại một niềm tin mãnh liệt rằng mai đây đất nước lại hòa bình, con của mẹ sẽ sống trong hạnh phúc và tự do, thì ngày hôm nay đây mẹ vất vả đến bao nhiêu cũng là xứng đáng.
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 7Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 8
Chúng ta biết đến Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một hồn thơ giàu suy tư với những cảm xúc dồn nén chất chứa trong từng câu thơ. “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của ông. Xuyên suốt bài thơ người ta thấy hiện lên hình ảnh bà mẹ Tà ôi như một biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hùng.
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được sáng tác vào năm 1971 khi Nguyễn Khoa Điềm đang ở chiến khu phía Tây Thừa Thiên. Đến năm 1984, bài thơ được in trong tập “Đất và khát vọng”. Với giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết như một lời ru đã giúp người đọc thấy được tình cảm trìu mến của người mẹ dành cho con của mình. Trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” hình ảnh người mẹ hiện lên gắn liền với cuộc sống lao động thường ngày:
Đầu tiên hình ảnh người mẹ gắn liền với công việc làm nương rẫy, chăm lo cho cuộc sống của bộ đội kháng chiến. Để có được hạt gạo trắng ngần, có được những bữa cơm nóng hổi nuôi bộ đội, người mẹ phải làm lụng vất vả, phải đổ biết bao mồ hôi công sức. Dù không trực tiếp tham gia chiến trường thế nhưng người mẹ đã làm hết sức mình nơi hậu phương để có thể góp phần làm nên chiến thắng của nhân dân ta.
Cái hay, cái đẹp của đoạn thơ còn ở chỗ hình ảnh lao động của người mẹ gắn liền với giấc ngủ của con thơ “nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng”. Đây vừa là hình ảnh tả thực em bé được địu trên lưng mẹ vừa vô cùng ấm áp, thiêng liêng bởi nó đem đến cho người đọc cảm giác người mẹ và em bé như đang cùng chung một nhịp đập, cùng nhau chia sẻ công việc khó nhọc này.
Dù đang ngủ say giấc nhưng dường như em Cu – tai cũng đang cảm nhận được sự vất vả của mẹ: “Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi”. Đặc biệt hình ảnh tả thực đôi vai gầy của mẹ cũng thể hiện được tình thương, nỗi vất vả của mẹ. Người mẹ ấy vừa phải chăm lo cho đứa con thơ của mình, vừa phải gánh trên vai trọng trách tiếp tế lương thực nơi chiến trường vậy mà trái tim của mẹ vẫn dành cho con tình yêu thương hết mực, vẫn hăng say lao động bằng tất cả tình thương của mình. Ở những câu thơ sau hình ảnh người mẹ vẫn tiếp tục là hình ảnh người mẹ gắn liền với lao động sản xuất:
” Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka-lưi Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,”
” Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.”
Trước hết, ta có thể thấy Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất thành công thủ pháp tương phản để vừa làm nổi bật không gian mênh mông rộng lớn của núi rừng vừa thể hiện sự vất vả khó nhọc của người mẹ. So với không gian mênh mông rộng lớn kia thì hình ảnh người mẹ trông thật nhỏ bé ấy vậy mà nó vẫn bừng sáng khắp không gian.
Người mẹ không chỉ tích cực tham gia tăng gia sản xuất mà còn mang trên vai “mặt trời” của mẹ với tất cả tình cảm yêu thương, chăm sóc. Hình ảnh ẩn dụ này vừa thể hiện rằng đứa con như là nguồn sống của người mẹ vừa khẳng định rằng đây chính là nguồn năng lượng lớn nhất, tiếp sức cho mẹ vượt qua biết bao gian truân, khó nhọc. Và rồi từ vị trí hậu phương vững chắc ta đã thấy hình ảnh người mẹ được hiện lên nơi chiến trường, được tham gia vào kháng chiến một cách trực tiếp hơn:
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Khi cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất thì mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp không phân biệt già, trẻ, lớn, bé đều đứng dậy cầm súng ra trận thì người mẹ ấy cũng góp sức mình vào việc “chuyển lán”, “đạp rừng”… Đây là những công việc còn khó khăn gấp trăm lần vậy mà hình ảnh đứa con vẫn xuất hiện trên lưng mẹ.
Giấc ngủ của em theo chân mẹ tới mọi nẻo đường, cùng mẹ trải qua mọi khó khăn, gian khó. Lúc này đây đứa con không chỉ là nguồn sống, là nguồn sức mạnh mà nó còn như một người bạn cùng mẹ vượt qua mọi nẻo đường.
Có thể thấy hình ảnh người mẹ Tà – ôi hiện lên thật chân thực nhưng cũng rất tình trong những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Đó là một người mẹ tần tảo sớm hôm, một người mẹ sẵn sàng hy sinh cho kháng chiến, một người mẹ với niềm tin mãnh liệt vào sự toàn thắng của dân tộc, một người mẹ với tình yêu thương con hết mực – một người mẹ anh hùng.
Qua “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” ta không chỉ thấy được tình cảm của nhà thơ mà còn thấy yêu thêm biết bao bà mẹ Việt Nam anh hùng khác trên khắp dải đất hình chữ S này.
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 6Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 7
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng 3 năm 1971, là một trong số những bài thơ hay của ông. Nổi bật trong bài là hình ảnh người mẹ Tà Ôi như là biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một con người rất mực thương con nhưng cũng vô cùng yêu nước. Dường như đứa con yêu quí và đất nước thân thương nuôi con nên người và đánh giặc giải phóng quê hương là những gì trọng đại nhất cao quí nhất của người mẹ này trong những năm đất nước phải gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lược.
Bài thơ đồng thời là lời hát ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan (đồng thời miêu tả hình ảnh người mẹ). Người mẹ trong bài ru em ngủ ngoan nhưng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim (Lưng đưa nôi và tim hát thành lời). Lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ nối tiếp nhau, đan cài, hòa quyện vào nhau làm nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm tư, sâu lắng.
Vì kết cấu bài thơ như những khúc hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại một số khúc giống nhau như những nét nhạc chủ đạo trong một bài hát. Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là một đoạn thơ. Ở đoạn thơ thứ nhất, người mẹ ru con khi địu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội.
Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất cả của mẹ. Người mẹ Tà Ôi thương con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy lưng làm nôi và đôi vai gầy làm gối cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình thương yêu bộ đội:
“Mẹ thương A Kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…”
Ước mơ của người mẹ nối liền với giấc mơ của con và cùng hội tụ lại trong tình thương yêu sâu sắc những anh bộ đội. Trong đoạn thơ thứ hai, bà mẹ Tà Ôi địu con đi tỉa bắp trên núi Ka Lưi. Tình thương yêu và niềm hi vọng vô bờ của người mẹ đối với đứa con được thể hiện bằng lời và những hình ảnh độc đáo:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.”
Trong câu thơ trên hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho cây cỏ, làm cho cây cỏ thêm tươi tốt, như cây ngô bắp to, hạt mẩy. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau là ẩn dụ. Tác giả so sánh ngầm Cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con như mặt trời thì quả là lòng mẹ yêu quí con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất cả tương lai của mẹ.
Hai câu thơ, hai hình ảnh tôn nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình thương yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con. Lời ru của người mẹ Tà Ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lòng thương yêu con của mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thương yêu dân làng – những người dân lao động nghèo đói:
“Mẹ thương A Kay, Mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi”.
Trong đoạn thơ thứ ba, người mẹ địu con trong tư thế đang “chuyển lán”, “đạp rừng”. Bà mẹ băng rừng, địu con trên lưng đưa con đi “để giành trận cuối”. Lòng yêu con của mẹ đến đây gắn liền với lòng yêu nước: “Mẹ thương A Kay mẹ thương đất nước”. Người mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con niềm khao khát được gặp Bác Hồ và mong đất nước được độc lập tự do:
“Con mơ cho mẹ được gặp Bác Hồ
Mai sau con lớn thành người tự do”.
Tiếng hát ru con của người mẹ Tà Ôi không phải được cất lên bên cánh võng hay trên giường ấm nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy ngân lên trong trái tim của mẹ khi mẹ địu con giã gạo, tỉa bắp trên núi, khi mẹ “chuyển lán”, “đạp rừng” hoặc trên đường ra chiến trường để giành trận cuối.
Như vậy, bà mẹ Tà Ôi là một người mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hòa quyện vào nhau trong tấm lòng của một người mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 6
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 5Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 6
Nguyễn Khoa Điềm là một trong số ít những người vừa là nhà chính trị, vừa là một nhà thơ lớn của Việt Nam. Những tác phẩm của ông thường đi từ những cái mộc mạc, gần gũi của quê hương, đất nước, ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của con người bằng một giọng thơ rất đỗi suy tư và nồng nàn.
Một trong những tác phẩm khá nổi tiếng của ông đó là bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Bài thơ xoay quanh hình ảnh người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng cùng tham gia góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, qua đó thể hiện được tình mẫu tử thật thiêng liêng cùng với sự kiên cường mạnh mẽ của người mẹ Tà-ôi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung trong những năm tháng đất nước còn chìm trong bom đạn chiến tranh.
Từ những câu thơ đầu tiên ta đã thấy được tình yêu thương thật tha thiết dịu dàng của mẹ dành cho con. “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”, hai câu thơ này lần lượt trở đi trở lại trong suốt bài thơ. Ta nghe tưởng như người mẹ đang vỗ về, an ủi đứa con phải vất vả buôn ba theo mẹ, chịu nắng chịu mưa. Lòng mẹ thương con, nhưng cũng không muốn phải xa con, mẹ muốn con được theo sát bên mẹ, trong tầm mắt của mẹ, để mẹ có thể yên lòng mà lao động, sản xuất, chiến đấu.
Mẹ như tâm tình với con bằng một giọng rất đỗi dịu dàng, trìu mến, lại như giảng giải “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Như vậy hạt gạo trắng ngần mà mẹ mất bao công sức làm ra, đôi tay vung chày mỏi rệu rã, là để dành nuôi sống gia đình và ý nghĩa hơn nữa là những hạt gạo ấy còn để dành phần lớn nuôi bộ đội, nuôi cách mạng nay đã sắp đến ngày thành công. Rồi mai đây đất nước thanh bình, mẹ và con sẽ chẳng còn phải vất vả nhiều thế nữa.
Như vậy dẫu cho ngày hôm nay “Giọt mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi”, em phải ngủ trên lưng mẹ với giấc ngủ nghiêng theo nhịp chày cũng là xứng đáng. Tuy người mẹ Tà-ôi không thể cho đứa con mình một giấc ngủ được yên lặng, sung sướng, nhưng dường như tất cả những tình cảm yêu thương của người mẹ đã bù đắp lại điều ấy. Bởi em cu Tai đã có tấm lưng gầy của mẹ làm gối, tấm lưng mỏng của mẹ làm nôi và hơn tất cả trái tim của mẹ, tình yêu của mẹ dường như đã biến thành bài hát để ru em ngủ.
Em ngủ thật ngoan trong tình yêu của mẹ. Và trong những lúc lao động vất vả như thế, trong từng nhịp chày, người mẹ lại nghĩ đến đứa con yêu dấu của mình, nghĩ đế bộ đội đang ngày đêm vất vả, mẹ lại càng mong con thật mau lớn khỏe mạnh “vung chày lún sân”, rồi mong cho thóc gạo thật nhiều để giúp cho bộ đội có cái ăn mà chiến đấu.
Người mẹ Tà ôi không chỉ làm hậu phương, vung chày giã gạo trong sân nhà, mà còn lên đồi, lên nương tỉa bắp, để tăng gia sản xuất góp phần cung cấp lương thực cho cuộc kháng chiến đang hồi gấp rút. Những hình ảnh sóng đôi mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào bài thơ thật độc đáo, góp phần nâng tầm vóc của người mẹ lên sánh vai cùng với thiên nhiên “Lưng núi thì to còn lưng mẹ nhỏ”.
Đúng vậy tấm lưng mẹ vừa gầy guộc, lại vừa nhỏ bé nhưng nó gánh trên lưng bao nỗi vất vả, bao trách nhiệm vậy thì sánh với núi mẹ dường như cũng ngang bằng hoặc thậm chí còn có tầm vóc lớn hơn. Rồi hình ảnh “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi/Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”, lại càng đặc sắc hơn cả, người mẹ xem đứa con chính là mặt trời của bản thân, là nguồn sống, là động lực to lớn hơn cả.
Mẹ có làm lụng có vất vả, cực nhọc đến đâu thì chỉ cần nhìn con là mẹ lại như được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh. Và trong lời ru trực tiếp thật tha thiết của người mẹ Tà-ôi, thì tình yêu thương con, yêu thương ngôi làng đói khổ lại càng thêm sâu sắc, cứ mỗi niềm thương ấy thì mẹ lại càng thêm mong mỏi cho con mau khôn lớn, mạnh khỏe để “phát mười K’lưi”.
Đến khúc ru thứ ba, hình ảnh người mẹ trở nên ấn tượng hơn cả, người mẹ Tà-ôi không còn loanh quanh nơi góc sân nhà giã gạo, không còn còng lưng tỉa bắp trên đồi. Mà giờ đây mẹ còn mạnh mẽ hơn, mẹ bước từ hậu phương mẹ ra tiền tuyến, mẹ trực tiếp tham gia vào trận chiến. Bởi lẽ kháng chiến giờ đây đã gần đến thắng lợi sau cùng, tất cả gìa, trẻ, gái, trai đều xung phong đi chiến đấu.
Mẹ cũng vậy, mẹ cũng ra chiến trường, tham gia vào những công việc cực nhọc gấp trăm lần như chuyển lán, đạp rừng gian khổ biết bao nhiêu. Nhưng trong trái tim người mẹ Tà-ôi ấy tràn đầy niềm tin chiến thắng “Mẹ địu con đi để giành trận cuối”, tin tưởng trận này nữa thôi đất nước sẽ lại hòa bình, tự do. Trong suốt quá trình chiến đấu ấy, ta phát hiện ra rằng em cu Tai vẫn cứ nằm trên lưng mẹ, em cùng mẹ ra vào chiến trường, cùng mẹ băng núi vượt rừng, chứng kiến tất cả những gian truân vất vả mà mẹ em đã trải qua.
“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường/Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”, hai câu thơ đã chứng minh cho tình cảm mẹ con thật gắn bó, khăng khít, hai mẹ con luôn luôn đồng hành cùng nhau trong mỗi chặng đường dù là gian lao, vất vả, nắng mưa, nhọc nhằn. Và sau những gian lao, vất vả ấy, cuối cùng mong mỏi lớn nhất của mẹ chính là mong sao con được làm người tự do, mong sao đất nước Việt Nam sớm ngày được độc lập.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ là một bài thơ hay và đặc sắc, với giọng thơ mang âm hưởng lời ru của đồng bào Ê-đê, lời ru rất đỗi dịu dàng, thắm thiết vừa chân thành, lại vừa mộc mạc. Điều đó đã góp phần thể hiện được hình ảnh người mẹ Tà-ôi anh hùng, vừa kiên cường, vừa mạnh mẽ, chịu thương chịu khó, là đại diện cho hình ảnh những người mẹ Việt Nam anh hùng.
Tất cả những điều ấy đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương con tha thiết, là tình mẫu tử thật thiêng liêng, sâu xa hơn đó là tấm lòng yêu quê hương đất nước thật nồng nàn, mong muốn một cuộc sống tự do cho con, cho cả dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 4Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 5
Thơ văn Nguyễn Khoa Điềm mang khuynh hướng triết luận trữ tình sâu sắc kết hợp với nguồn chất liệu văn hóa dân gian dồi dào của dân tộc, ông có mặt xuyên suốt và là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành thông qua cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy máu và lửa dân tộc.
Thời đại có nhiều biến động đã gợi ra trong tác giả 2 nguồn cảm hứng chính trong sáng tác ấy là hình tượng đất nước và hình tượng nhân dân anh hùng trong chiến đấu, kết hợp tinh tế giữa những vang động lớn lao của thời đại với những rung động tinh tế trong tâm hồn của con người để tạo ra những áng thơ tuy không rực lửa nhưng lại mang những cảm xúc ấm áp, sưởi ấm cho nhiều thế hệ con người.
Ngoài giọng thơ chính luận đem đời sống chính trị vào thơ một cách hùng hồn, ngắn gọn xúc tích thì Nguyễn Khoa Điềm còn đặc biệt có một giọng thơ trữ tình sâu sắc, thiết tha nồng đượm khi viết về những tình cảm trú ngụ trong tâm hồn con người. Đặc biệt là với tình mẫu tử thiêng liêng cao cả trong thời chiến, ông đã khéo léo dùng một giọng thơ mang âm hưởng lời du ngọt ngào, thủ thỉ tâm tình như chính nỗi lòng của người mẹ, điều ấy thể hiện rất rõ thông qua bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được sáng tác vào năm 1971, khi tác giả tham gia chiến đấu tại chiến trường phía Tây khu Thừa Thiên. Bằng những trải nghiệm chân thực và trực tiếp chứng kiến quá trình chiến đấu anh hùng của những người mẹ Tà-ôi trong kháng chiến, Nguyễn Khoa Điềm đã xúc động viết ra những vần thơ mang âm hưởng lời ru tha thiết vừa để ca ngợi tình mẫu tử rất đỗi thiêng liêng sâu sắc, cũng là để ca ngợi vẻ đẹp kiên cường của người phụ nữ Tà-ôi cũng như toàn dân tộc trong những năm tháng chiến tranh vô cùng ác liệt.
Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh người mẹ dân tộc địu đứa con nhỏ trên lưng trong mọi công việc, mọi giai đoạn cùng nhau vượt qua bao gian khổ của cuộc sống và chiến đấu, thể hiện sự gắn bó khăng khít và sâu nặng của tình mẹ con. Hai câu thơ “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.” cứ trở đi trở lại trong cả bài thơ tựa như lời dặn dò đầy yêu thương, trìu mến của người mẹ dành cho đứa con bé nhỏ, đang chập chờn trong giấc ngủ, mẹ chịu vất vả, con cũng phải buôn ba theo mẹ bất kể nắng mưa.
Giấc ngủ của em cu Tai chính là giấc ngủ của nhiều những em bé Tà-ôi khác và cuộc đời của mẹ cũng chính là cuộc đời của nhiều người phụ nữ Tà-ôi trong kháng chiến còn nhiều khó khăn. Chính bởi tấm lòng mẹ thương con sâu sắc, nên mẹ chẳng dám, cũng chẳng muốn xa con một giây phút nào, lưng mẹ địu con, tay mẹ lao động, để lúc nào mẹ cũng được gần con mà yên tâm chiến đấu vì tương lai của đất nước, cũng là vì tương lai của đứa con thơ.
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Hình ảnh người mẹ Tà-ôi hiện ra thật chân thực trong hình ảnh lao động vô cùng vất vả “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”, đôi tay của người mẹ tuy nhỏ bé nhưng chứa đựng sức mạnh thật phi thường, trong một góc sân nhỏ, từng hạt gạo trắng ngần được bàn tay mẹ làm ra từ những nhịp chày nghiêng nghiêng, mà có lẽ con là người cảm nhận rõ nhất. Những hạt gạo ấy không chỉ để nuôi sống mẹ, nuôi sống con, nuôi sống gia đình mà quan trọng hơn cả đó là những hạt gạo quý giá để nuôi sống bộ đội, nuôi sống cách mạng Việt Nam.
Sự vất vả của mẹ dường như cũng đi sâu vào tiềm thức con thông qua những giọt mồ hôi mặn chát nóng hổi, thông qua những lần bóng lưng mẹ nghiêng khiến giấc ngủ em chập chờn. Dẫu rằng tấm lưng mẹ gầy guộc đơn sơ, chẳng được êm đềm, vững chãi như những chiếc nôi, chiếc giường mềm mại, thế nhưng dường như chỉ có ở trên lưng mẹ em mới thực sự có một giấc ngủ ngon lành, bởi đã có bờ vai mẹ thay gối, tấm lưng mẹ thành nôi và trái tim mẹ rộn ràng sau những lần vung chày mạnh mẽ làm thành lời ru ngọt ngào, êm ái đưa em vào giấc ngủ dịu êm.
Từ những hình ảnh, bình dị và thân thuộc trong cuộc sống lao động của người mẹ dân tộc ta cảm nhận được tấm lòng cao cả của người mẹ dành cho đất nước, mẹ hy sinh biết bao mồ hôi công sức, mệt nhoài trong những lần gia gạo, nhưng chưa bao giờ mẹ từ bỏ, mẹ đã trở thành hậu phương đóng góp một phần công sức của mình để làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
Cũng như bao chiến sĩ ngoài kia thì ở đây mẹ cùng con cũng phấn đấu hết mình trong lao động, chiến đấu trong âm thầm lặng lẽ, bên góc sân nhà với vũ khí là cối cùng chày để mong một ngày đất nước được tự do. Không chỉ nằm trong khuôn khổ góc sân cùng với công việc giã gạo, mà người mẹ Tà-ôi cùng đứa con còn xuất hiện trong những ngày tăng gia sản xuất ở chiến khu, và trước đó nếu em theo mẹ giã gạo, thì giờ đây em lại theo mẹ lên núi để “trỉa bắp”.
“Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka–lưi
Em ngủ ngoan em, đừng làm mẹ mỏi.
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.”
Nếu so với việc địu em giã gạo, thì việc “tỉa bắp” trên núi cao lại càng khiến mẹ vất vả hơn rất nhiều, đôi tay mẹ gieo từng hạt bắp, đôi chân mẹ lần từng bước đi, lưng mẹ cõng em, còn bóng mẹ hứng ánh nắng gay gắt từ mặt trời và dĩ nhiên em cu Tai cũng chẳng được giấc ngủ êm đềm, mát mẻ.
Người mẹ Tà-ôi thương cho đứa con bé bỏng, lòng vẫn luôn nặng một lời ru “Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi”, mẹ mong em Cu-Tai cũng thấu hiểu được nỗi vất vả của mẹ ngày hôm nay mà bằng lòng yên giấc, để mẹ được yên tâm lao động. Trong khổ thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất nhiều thủ pháp nghệ thuật quen thuộc như so sánh và ẩn dụ để làm lời thơ vừa uyển chuyển vừa thêm phần ý nghĩa dưới những câu chữ rất đỗi đơn giản, mộc mạc.
Nhà thơ đã khéo léo so sánh giữa hai hình tượng “Lưng núi thì to” và “lưng mẹ nhỏ” để làm nổi bật vẻ đẹp vĩ đại của con người trước thiên nhiên, cũng như tầm vóc của người mẹ Tà-ôi trong lao động sản xuất, trong trách nhiệm với đất nước với dân tộc. Tấm lưng của núi ấy dẫu có to có rộng cũng chỉ gánh được một vùng trời, còn tấm lưng của mẹ tuy nhỏ nhắn gầy guộc nhưng lại mang vác biết bao trách nhiệm nặng nề, dường như chẳng hề tương xứng.
Trên lưng mẹ có giấc mơ của con, có trách nhiệm nuôi sống cả gia đình và quan trọng hơn cả đó là trách nhiệm làm hậu phương vững chắc, tích cực lao động sản xuất để nuôi cán bộ, làm hậu phương vững chắc cho cách mạng, vì tương lai một ngày không xa đất nước được hòa bình tự do. Không chỉ là tình cảm phấn đấu hy sinh vì cách mạng mà tâm hồn của người mẹ còn trở nên sáng ngời vì tình mẫu tử thiêng liêng.
Đối với cây bắp non chờ ngày đơm bông kết quả thì mặt trời chính là nguồn sống, nguồn dinh dưỡng quan trọng bậc nhất không thể thay thế, thì đối với mẹ em cu Tai đang say giấc nồng lại chính là mặt trời đầy yêu thương mà mẹ hết lòng trân quý. Em không chỉ tiếp thêm sức mạnh cho lao động sản xuất mà em còn chính là ánh sáng dẫn lối cho mẹ trong những năm tháng mờ mịt vì bom đạn giặc thù.
Em để mẹ hiểu rõ rằng chỉ có làm cách mạng, chỉ có chiến đấu vì đất nước thì tình yêu thương của mẹ đối với em mới là trọn vẹn, mẹ phải cố gắng dành cho em một đất nước tươi đẹp, tự do và độc lập để em được sống những ngày an yên nhất. Phải nói rằng trong tất cả các loại tình cảm trên thế gian có lẽ chẳng có loại nào vừa thiêng liêng, vừa cao cả, vừa bao dung và dịu dàng hơn tình mẹ nữa.
Người mẹ Tà-ôi đâu chỉ kiên cường, mạnh mẽ trong lao động sản xuất mà bước chân mẹ đã chuyển từ góc sân, từ quả núi ra đến tận chiến trường mưa bom, bão đạn. Mẹ không còn là hậu phương âm thầm, lặng lẽ mà giờ đây người phụ nữ chân yếu tay mềm thế mà cũng trở thành một người lính thực thụ, trực tiếp tham gia vào chiến đấu, đặc biệt hơn cả trên lưng mẹ, em cu Tai vẫn luôn theo sát một bước chẳng rời, gắn bó chặt chẽ vô cùng.
Công việc của mẹ đã không còn là giã gạo hay tỉa bắp mà thay vào đó là công việc vất vả cực nhọc hơn gấp bội phần, không chỉ mệt mà mẹ còn phải đối mặt với biết bao nguy hiểm đang rình rập trong lúc “chuyển lán”, “đạp rừng”. Trong khí thế hào hùng sôi nổi của cách mạng, trong lúc trận chiến bước vào thời kỳ cam go quyết liệt nhất, khi giặc thù đã “đuổi ta phải rời con suối”, biết bao đồng bào “anh trai cầm súng, chị gái cầm chồng”, thì chính bản thân mẹ và em cũng hòa mình vào cuộc đấu tranh.
“Mẹ địu em đi để giành trận cuối”, với một niềm tin vững chắc rằng không lâu nữa đất nước lại hòa bình, và với mỗi trận chiến mẹ cũng như đồng bào đều dồn hết ý chí và sức mạnh giống như hôm nay là “trận cuối” với niềm hy vọng toàn thắng. Dĩ nhiên rằng trong những lúc cam go, khốc liệt như vậy mẹ lại càng muốn được gần em, muốn bảo vệ em trong vòng tay yêu thương của mình, em cứ thế nằm trong giấc ngủ đến chiến trường ác liệt, trải qua biết bao đói khổ trên con đường Trường Sơn đỏ đất anh hùng.
Phải nói rằng, đến đoạn thơ này ngoài cảm hứng lãng mạn dẫn dắt ý thơ, thì khuynh hướng sử thi của thời đại đã hiện lên một cách rõ ràng thông qua hình tượng người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến đấu, bất chấp gian khó, đại diện cho hàng triệu con người trong công cuộc giải phóng đất nước với tình yêu thương gia đình, mở rộng ra là tình yêu thương quê hương đất nước, căm thù giặc Mỹ đến tận xương tủy.
Từ trong những lời ru tha thiết của mẹ, ta có thể nhận ra tấm lòng yêu thương đứa con nhỏ tha thiết, sâu nặng, mẹ chấp nhận hy sinh tất cả, đánh đổi sức khỏe, tính mạng để tham gia phục vụ chiến đấu, phục vụ cách mạng, trước hết vẫn là vì đứa con thơ dại, mẹ mong “Mai sau con lớn làm người Tự Do”, kết hợp với tấm lòng yêu nước, yêu đồng bào vốn đã ngự trị sẵn trong tâm hồn của mỗi một người dân đã làm nên một người mẹ anh hùng, kiên cường, bất khuất trong chiến đấu, trái tim, tấm lòng luôn sáng đẹp lý tưởng cách mạng và tình mẫu tử thiêng liêng, tha thiết.
Bằng giọng thơ mang âm hưởng lời ru tha thiết, ngôn từ mộc mạc, giản dị nhưng chứa nhiều cảm xúc, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một hình ảnh người mẹ Tà-ôi rất đẹp, rất vĩ đại với tình cảm mẹ con bao trùm cả tác phẩm, cùng với tình yêu quê hương đất nước nồng nàn.
Đồng thời thể hiện tầm vóc con người trong những năm kháng chiến chống Mỹ, người mẹ Tà-ôi chính là đại diện cho hàng triệu những con người khác đã góp một phần công sức vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, để làm nên thắng lợi vẻ vang của đất nước, mà ở đó nổi bật lên những tình cảm vô cùng cao quý, tình cảm gia đình, tình cảm với đất nước, nhân dân thiết tha sâu nặng.
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 4
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 3Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 4
Tác giả Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ lớn, có nhiều tác hay đóng góp cho nền văn học nước nhà. Thơ của ông thường gắn liền với tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người và có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” thể hiện nguồn cảm hứng vô tận của tác giả với những người con đồng bào Tây Nguyên dân tộc thiểu số ít người.
Bài thơ thể hiện tình cảm mẫu tử thiêng liêng, tình yêu của người mẹ dành cho con, hòa chung vào tình yêu quê hương đất nước, tạo thành một tình lớn, mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc.
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:
Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,
Mẹ thương a kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần,
Người đồng bào vùng dân tộc thường có thói quen địu con trên lưng khi đi làm nương, làm rẫy, khi giã gạo, quay lúa, dệt vải. Những đứa trẻ thơ vùng cao có lẽ ai cũng từng một thời được sống trên lưng mẹ. Lưng người mẹ ấm áp ấp ủ cho con những giấc mơ đẹp, ru con những trưa nồng oi ả, cho con những khoảng trời tuổi thơ bình yên với những giấc mơ ngoan hiền.
Người mẹ trong khổ thơ thật sự là một bà mẹ vô cùng vĩ đại. Một bà mẹ vừa chăm chỉ làm việc, vừa chăm con dành hết tình yêu thương của mình cho đứa con bé bỏng. Nhưng, người mẹ này cũng chưa giây phút nào quên tình yêu, trách nhiệm với với quê hương, đất nước. “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội. Nhịp chày nghiêng giấc mơ em nghiêng”.
Tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã vô cùng tinh tế khi lấy hình ảnh nhịp chày nghiêng để so sánh với giấc mơ nghiêng của em bé. Mẹ em đang vung những nhịp chày, làm việc tạo ra những hạt gạo ấm áp tình quân dân, tình đồng bào, đồng chí. Em nằm ngoan sau lưng mẹ ngủ một giấc no say, những giấc mơ bình yên về một ngày mai tươi sáng.
Những giọt mồ hôi của mẹ rơi xuống thấm qua lớp áo chảy xuống khuôn mặt hồng hào, bụ bẫm của em, chảy cả vào trong giấc mơ của em. Mẹ làm việc rất vất vả, lại còn phải cõng thêm em ở trên lưng, chắc mẹ sẽ cảm thấy rất mệt mỏi. Nhưng không mẹ em rất hạnh phúc.
Các chú đang đánh trận ngoài chiến trường đang bảo vệ từng mảnh đất quê hương, nơi có con và mẹ đang ở. Rồi mai đây khi con lớn lên, con được sống những ngày tháng bình yên, hạnh phúc. Con sẽ được cùng chúng bạn tung tăng cắp sách tới trường, con sẽ trở thành một chàng trai dũng cảm, sẽ giống như mẹ hôm nay, sẽ theo bước cha ông ta, “vung chày lún sân” để tạo ra nhiều của cải vật chất cho quê hương, cho dân tộc.
Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka–lưi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Người mẹ đồng bào dân tộc đi đâu làm gì cũng luôn phải mang con theo cùng. Những việc mẹ làm vô cùng nặng nhọc nhưng có em ở bên dường như mẹ không còn cảm thấy cô đơn nữa. Mẹ làm việc vì con. mong muốn cho con lớn khôn trưởng thành, có một cuộc sống đầy đủ hơn. Tình yêu của người mẹ thể hiện qua từng ấp ủ, mong muốn nhỏ nhoi.
Qua những câu thơ này ta thấy tác giả là một người có trái tim vô cùng nhân hậu. Ông có thể thấu hiểu, cảm thông với nỗi khổ của những người mẹ vùng cao, hiểu được tâm hồn và trái tim của họ. Sự so sánh độc đáo “Lưng núi to” với hình ảnh “Lưng mẹ thì nhỏ” thể hiện sự vất vả của mẹ trong việc làm nương rẫy. Nhưng nó cũng thể hiện tình yêu mãnh liệt của mẹ dành cho em. “mặt trời của bắp thì nằm trên đồi. Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”.
Tác giả đã sử dụng hình ảnh chơi chữ, lối nói ẩn dụ cùng là hình ảnh mặt trời. Nhưng mặt trời nhưng thể hiện sự biểu cảm khác nhau. Mặt trời của mẹ chính là em. Mẹ dành hết tình yêu, sức mạnh của cuộc đời mình để chăm sóc, lo lắng cho em. Mong cho em cho em có cuộc sống vui vẻ hạnh phúc.
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Trong khổ thơ này, người mẹ không chỉ dịu con làm rẫy, đi rừng hay giã gạo nữa. Mà người mẹ đã địu con vào chiến trường, vào Trường Sơn tham gia giết giặc chống quân thù. Mẹ địu con đi đánh trận cuối, thể hiện sự quyết tâm của người mẹ trong cuộc chiến đấu khốc liệt này. Đồng thời cũng thể hiện niềm tin tất thắng của toàn thể người dân trên đất nước ta. Chúng ta luôn tin đạo nghĩa sẽ thắng hung tàn, sự đoàn kết ý chí của người dân sẽ xóa tan những âm mưu đen tối.
Trong trận chiến ác liệt này người mẹ muốn con yêu của mình hiểu được tội ác của kẻ thù vì chính chúng nó đã khiến mẹ con mình có nhà mà không thể về phải ra bờ suối. Chính giặc Mỹ đã khiến bao người dân đồng bào mình phải lên đường, các anh thì cầm súng còn các chị cầm chông.
Dù với vũ khí nào thì tinh thần quyết tâm chống giặc ngoại xâm của người đồng bào ta vô cùng mạnh mẽ. Chúng ta trên dưới đồng lòng trăm người như một. Mẹ của con cũng vậy mẹ không thể ngồi nhà chờ giặc đến đàn áp chúng ta thêm nữa, mẹ cũng lên đường tham gia chiến đấu. Những lời ru của người mẹ như những lời tâm sự tận đáy lòng, là sự sẻ chia của bà mẹ dành cho con của mình.
Bài thơ đã thể hiện tình cảm sâu sắc của người đồng bào dân tộc, những người có cái bụng thẳng thắn, chân tình. Họ luôn hướng về cách mạng, về những anh bộ đội Cụ Hồ với những tình cảm gắn bó sâu sắc.
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 2Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 3
Viết về bà mẹ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ độc đáo và rất hay. Nó đã được phổ nhạc thành ca khúc từng làm rung động hàng triệu trái tim
.
Bà mẹ được nói đến là bà mẹ người Tà-ôi có một tình thương mênh mông: thương con, thương làng đói, thương bộ đội, thương đất nước. Bài thơ có 3 khúc ca được sáng tạo theo âm điệu dân ca, điệu ru con của đồng bào Tà-ôi trên miền núi Trị Thiên. Mở đầu mỗi khúc ca là một điệp khúc ngọt ngào tha thiết:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi!
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ…
Có lúc như vỗ về yêu thương. Tình mẹ hay tấm lòng nhà thơ: “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi..”. Khúc ca thứ nhất là tiếng ru khi mẹ địu con giã gạo:
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.
Tiếng ru con “nghiêng” theo nhịp chày làm cho giấc ngủ em cu Tai cũng “nghiêng” theo. Con như đang chia sẻ sự vất vả của mẹ. Má em cũng “nóng hổi” vì bao mồ hôi mẹ tuôn rơi. Hàng loạt hình ảnh hoán dụ (mồ hôi, má, vai, lưng, tim) được sử dụng rất “đắt” để thể hiện trái tim yêu thương mênh mông của người mẹ nghèo. Lưng mẹ là chiếc nôi để con lớn lên. Tim mẹ dạt dào tình mẫu tử, đã “hát thành lời”. Hạt gạo hậu phương là “hạt vàng làng ta” hạt gạo của mẹ nặng tình nặng nghĩa, rất đáng tự hào:
“Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội”. Khúc ca thứ hai là tiếng ru khi mẹ tỉa bắp trên núi Ka-lưi. Người mẹ cần cù đảm đang vừa địu con, vừa làm rẫy. So sánh “lưng núi” và “lưng mẹ” nhằm khẳng định đức tính kiên nhẫn, chịu đựng gian khổ của người mẹ nghèo:
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ.
“Mặt trời” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là một hình ảnh ẩn dụ nói lên tình thương, niềm tự hào của mẹ đối với cu Tai, vì em là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mẹ: “Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”. Mẹ nhân hậu, lòng mẹ bao la mang nặng tình nhà nghĩa xóm: “Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói”. Thời kháng chiến “hạt gạo cắn đôi, hạt muối chia đều” là thế.
Khúc ca thứ ba, nhịp điệu vang lên dồn dập. Đó là lúc “Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối”, dồn đồng bào Tà-ôi vào chỗ chết, mẹ địu con khi đang “chuyển lán” và “đạp rừng”. Cả gia đình mẹ cùng ra trận, mang tầm vóc anh hùng:
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Khúc ca thứ ba là khúc ca chiến đấu. “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh ” là truyền thống anh hùng của người phụ nữ Việt Nam. Ở đây, người mẹ địu con ra trận, đi tiếp tế, đi tải đạn vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: “Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước”. Trong bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm 3 lần nói lên giấc mơ đẹp của bé thơ:
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần.
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều.
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi.
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Đó là giấc mơ tình thương, giấc mơ về ấm no, hạnh phúc, giấc mơ chiến thắng. Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ xứng đáng là bài ca lòng mẹ Việt Nam. Mọi đứa con chỉ có thể lớn lên bằng dòng sữa, bằng lời ru, tình thương của mẹ.
Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là tượng đài tráng lệ về bà mẹ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Nó nhắc nhở mỗi chúng ta ghi sâu trong lòng tình cảm kính yêu và biết ơn người mẹ hiền của mỗi chúng ta, tự hào về bà mẹ Việt Nam.
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 1Bài thơ kể về người mẹ dân tộc Tà-ôi vừa địu con trên lưng vừa giã gạo để nuôi bộ đội; tỉa bắp trên nương góp phần sản xuất lương thực cho kháng chiến và mơ ước sau này sẽ được thấy Bác Hồ, ước mong con mình khôn lớn được sống trong đất nước tự do. Qua đó, tác giả ca ngợi tình yêu con thiết tha, đằm thắm và tình yêu nước sâu nặng của bà mẹ Tà-ôi.
Bài thơ có 3 khúc ru, mỗi khúc đều mở đầu bằng câu: “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi”. Kết thúc là lời ru của mẹ được lặp lại ở mỗi đoạn: “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi. Mẹ thương a-kay, mẹ thương… Con mơ cho mẹ… Mai sau con lớn… “Trong mỗi khúc hát ru đều có hình ảnh người mẹ với công việc vất vả cùng tình cảm, ước vọng đối với đứa con và quê hương đất nước. Mở đầu bài thơ là tiếng ru thân thương, vỗ về của nhà thơ, đưa em bé vào giấc ngủ say nồng:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Trong lời ru đứa con chứa chan niềm thương mến sâu xa đối với người mẹ. Hai câu thơ sau miêu tả người mẹ trong công việc giã gạo nuôi quân:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nếu câu thơ trên tả thực thì câu thơ dưới thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng giữa mẹ và con. Tác giả vừa miêu tá công việc giã gạo nặng nhọc của người mẹ, vừa miêu tả giấc ngủ chập chờn, giấc ngủ nghiêng của cu Tai trên lưng mẹ. Dường như chú bé cũng thấy được nỗi vất vả và ý nghĩa đẹp đó trong việc làm của mẹ nên hơi thở em hoà cùng hơi thở mẹ và em cố ngủ ngoan cho mẹ yên lòng.
Nếu ai đã từng chứng kiến cảnh giã gạo bằng chày trong cối gỗ của đồng bào miền núi thì mới thấy hết sự vất vả khi biến hạt thóc thành hạt gạo trắng ngần. Nhà thơ đã chọn lựa những động tác tiêu biểu để miêu tả công việc giã gạo nặng nhọc và thể hiện tình mẹ con chân chất, sâu nặng của người mẹ miền núi. Cảnh tượng mộc mạc ấy đã làm xúc động lòng người:
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Khi mẹ giã gạo, cu Tai vẫn ngủ trên lưng. Trong giấc ngủ, em vẫn cảm nhận được mồ hôi của mẹ rơi trên má em nóng hổi, cảm nhận được sự vất vả và tình yêu con thiết tha của mẹ. Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh: đôi vai mẹ gầy làm gối cho con, lưng mẹ đung đưa làm nôi ru con ngủ và nhịp tim của mẹ hát thành lời yêu thương tha thiết. Trong giấc ngủ, lúc nào Cu Tai cũng được ấp ủ tròng hơi thở và tình thương của mẹ, được nghe mẹ hát ru.
Khổ thơ đã thể hiện được tình mẫu tử thắm thiết, thiêng liêng cùng công việc vất vả của người mẹ giã gạo để nuôi con, nuôi bộ đội Giải phóng. Nếu khổ thơ đầu là lời ru của nhà thơ thì khổ thơ thứ hai là tiếng nói tâm tình của người mẹ:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Câu thơ như lời ru êm ái chất chứa yêu thương. Tình cảm mẹ con vốn đã đẹp nay càng đẹp hơn bởi nó gắn liền với tình cảm lớn lao là tình thương bộ đội, tình yêu nước. Mẹ mong trong giấc ngủ, Cu Tai sẽ mơ giấc mơ của mẹ là có nhiều gạo thật ngon để nuôi bộ đội và Cu Tai sẽ lớn lên thật nhanh để giúp mẹ giã gạo nuôi quân:
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Từ ước mơ có hạt gạo trắng ngần đến ước mơ mai sau con lớn vung chày lún sân đều chứa đựng niềm hi vọng cháy bỏng của người mẹ về đứa con sau này sẽ trở thành một thanh niên cường tráng, có ích cho nước, cho dân.
Hình ảnh người mẹ trong cảnh tỉa bắp trên nương thật đẹp và cảm động:
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-Lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Vẫn là lời vỗ về của trái tim chan chứa thương yêu của nhà thơ, mong em bé ngủ ngon để mẹ yên tâm làm việc, nhưng ở khổ thơ này, cảm xúc da diết hơn thể hiện qua hình ảnh tương phản độc đáo: Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ. Núi thì lớn, nương bắp thì rộng mà sức mẹ có hạn. Mẹ cắm cúi, lom khom tỉa bắp, trên lưng mẹ con vẫn ngủ say. Câu thơ đã khắc sâu nổi vất vả khó nhọc của người mẹ vùng cao trong lao động sản xuất thời chống Mĩ.
Đối với những bà mẹ sớm hôm tần tảo nuôi con, dường như họ không biết mệt mỏi bởi đứa con là niềm hi vọng, là nguồn an ủi, động viên, tiếp thêm sức mạnh và nghị lực cho mẹ:
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Câu thơ lấp lánh nét đẹp cuộc đời và tình mẹ con. Biện pháp ẩn dụ trong những câu thơ này có nhiều ý nghĩa. Bắp trên nương tươi tốt nhờ ánh nắng mặt trời. Cu Tai cũng giống như mặt trời tỏa nắng sưởi ấm trái tim mẹ để mẹ sống tốt hơn, đẹp hơn cho đời. Em là mặt trời bé bỏng, thân yêu của mẹ. Lời ru ở khúc ru này vẫn là tiếng nói tâm tình của người mẹ nhưng đã chứa đựng ước mơ lớn hơn:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hát bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…
Càng thương con, người mẹ lại càng thương bà con dân bản. Mẹ ước mơ về một ngày mai no ấm hạnh phúc, về sự trưởng thành và sức mạnh kì diệu của đứa con thân yêu. Nếu ở hai đoạn thơ trước, tác giả miêu tả cảnh mẹ địu con trên lưng giã gạo nuôi bộ đội, địu con lên nương tỉa bắp thì ở đoạn thơ này là cảnh mẹ địu con cùng đi đánh giặc:
Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Sự lặp lại hai câu thơ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi, Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ đã tạo nên âm điệu ngân nga, thấm dần vào người đọc một cảm xúc thân thương. Con cùng mẹ băng suối, vượt ngàn, đạp rừng xông tới. Cả nhà, cả làng, cả nước cùng đánh giặc. Nhịp thơ sôi nổi, thôi thúc như một hành khúc lên đường. Câu kết vẽ lên hình ảnh thật xúc động:
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Lời thơ khẳng định ý chí chiến đấu mãnh liệt của bà mẹ Tà-ôi nói riêng và đồng bào miền tây Thừa Thiên Huế nói chung. Lúc này, mẹ và em cùng lên đường vào Trường Sơn đánh giặc, nơi có biết bao khó khăn vất vả, nơi cái chết và sự sống chỉ cách nhau gang tấc. Kết thúc bài thơ vẫn là lời hát ru và ước nguyện của mẹ:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Điệp khúc: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi, Mẹ thương a-kay…, Con mơ cho mẹ…, Mai sau con lớn… đã thể hiện khát vọng cháy bỏng trong lòng người mẹ. Mẹ mong ước cho con những điều thật thiết thực và cũng thật lớn lao, kì diệu:
Mai sau con lớn vung chày lún sân…,
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Khi giã gạo, mẹ mong con mơ cho mẹ hại gạo trắng ngần. Khi tỉa bắp trên nương, mẹ mong con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều. Khi chiến đấu, mẹ mong con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ trong ngày đất nước sạch bóng quận thù, Bắc-Nam thông nhất. Chính tình thương, đức hi sinh, lòng vị tha và nhân hậu cao cả của những người mẹ nghèo yêu nước ấy đã góp phần làm nên chiến thắng hôm nay.
Bài thơ ra đời năm 1971, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước nhưng đến nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Khúc hát ru đã được phổ nhạc, trở thành bài ca được nhiều người ưa thích. Tình yêu thương con của bà mẹ nghèo miền núi gắn liền với tình thương bộ đội, tình yêu làng bản, lòng kính yêu Bác Hồ và tình yêu đất nước.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được đánh giá là một trong những bài thơ hay của thơ ca giai đoạn chống Mĩ cứu nước. Giờ đây, đọc lại bài thơ, người ta vẫn rưng rưng xúc động bởi tình cảm mộc mạc, chân thành cao đẹp của những người mẹ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân tộc ta. Tự hào thay, người mẹ Việt Nam!
Sau cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước, Tổ quốc ta, nhân dân ta đã xây dựng biết bao tượng đài để ghi nhớ công ơn và ngợi ca những người mẹ Việt Nam anh hùng, Với Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã xây dựng thành công một tượng đài bằng ngôn ngữ về những người mẹ miền núi vô danh.
Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” số 1
Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” xứng đáng là bài ca lòng mẹ Việt Nam. Mọi đứa con chỉ có thể lớn lên bằng dòng sữa, bằng lời ru và tình thương của mẹ. Thi phẩm xuất sắc này chính là tượng đài về người mẹ Việt Nam: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
Đăng bởi: Nguyễn Phương Uyên
Từ khoá: 10 Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm
Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất
Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất ✅ Khám Phá Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Giúp Bạn Định Hướng Làm Văn Đạt Điểm Cao.
I. Mở bài cảm nhận về bài thơ Đất Nước:
Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm (tiểu sử, sáng tác chính, phong cách thơ…)
Giới thiệu về Trường ca Mặt đường khát vọng và đoạn trích Đất nước (hoàn cảnh ra đời, nội dung chính…)
II. Thân bài cảm nhận về bài thơ Đất Nước:
1.Đất nước bình dị, gần gũi được cảm nhận từ nhiều phương diện của đời sống
a) Nguồn gốc của đất nước
Đất nước hình thành cùng với những câu chuyện dân gian
Đất nước hình thành với những truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc: ăn trầu, búi tóc
Đất nước hình thành với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông
Đất nước hình thành với quá trình lao động sản xuất của cha ông: cái kèo cái cột thành tên, một nắng hai sương
Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.
b) Định nghĩa về đất nước
-Không gian đất nước:
Tác giả tách hai yếu tố đất và nước để cảm nhận một cách độc đáo
Đất nước là không gian gắn với cuộc sông của mỗi người, của anh và của em, là nơi hẹn hò của anh, em, của chúng ta: nơi ta hẹn hò, nơi anh đến trường, nơi em tắm
Không gian mênh mông với rừng vàng biển bạc
Là nơi sinh tồn và phát triển của cả cộng đồng dân tộc
-Thời gian lịch sử của đất nước:
Được nhìn xuyên suốt mạch thời gian từ quá khứ đến hiện tại
Từ hiện tại đến tương lai
-Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước:
“Phải biết gắn bó và san sẻ”, đóng góp, hi sinh để góp phần dựng xây đất nước
Qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.
2.Tư tưởng cốt lõi: đất nước của nhân dân
-Thiên nhiên của đất nước không phải đơn thuần là sản phẩm của tạo hóa mà hơn hết nó là một phần máu thịt của con người, do con người tạo nên:
Tình nghĩa thủy chung, thắm thiết: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái
Chiến đấu bảo vệ đất nước: chuyện Thánh Gióng
Cội nguồn thiêng liêng: đất tổ Hùng Vương
Truyền thống hiếu học: núi Bút non Nghiên
Hình ảnh đất nước tươi đẹp: con cóc, con gà…
Những cuộc di dân khai phá đất nước
-Lịch sử 4000 năm của dân tộc được tạo nên từ mồ hôi và cả chính xương máu của nhân dân:
Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước, họ vừa lao động sản xuât vừa hăng hái chiến đấu
Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.
Nhân dân là những người đã tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”, … từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền
Tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân: “Đất nước này là đất nước của nhân dân/Đất nước của nhân dân đất nước của ca dao huyền thoại”. Đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước.
Tư tưởng đất nước nhân dân của Nguyễn Khoa Điềm có sự kế thừa và phát triển trong thời đại mới, thời đại chống Mĩ cứu nước
III. Kết bài cảm nhận về bài thơ Đất Nước:
-Khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn trích
Nội dung: bài thơ thể hiện cách nhìn mới mẻ, độc đáo về đất nước trên nhiều góc độ khác nhau: văn hóa, lịch sử, địa lí…Từ đó, làm nổi bật tư tưởng “Đất nước của nhân dân”
Nghệ thuật: giọng thơ trữ tình, chính trị đằm thắm, dạt dào cảm xúc, sử dụng hình ảnh, yếu tố văn học, văn hóa dân gian….
-Bài học đối với thế hệ trẻ hiện nay: đất nước luôn dung dị, gần gũi và tồn tại trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người, vì vậy, chúng ta hãy thể hiện lòng yêu nước của mình từ những hành động nhỏ nhất
Ngoài cảm nhận về bài thơ Đất Nước, tham khảo trọn bộ ☀️ Dàn Ý Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm ☀️ Trọn Bộ Chuẩn Nhất
Đề tài đất nước là một trong những đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam nói chung và trong các lĩnh vực khác nói riêng. Chúng ta đã bắt gặp hình ảnh đất nước rất nhiều không chỉ trong văn học, thơ ca mà cả trong những lời ca, câu hát của bà và mẹ. Hình ảnh đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi.
Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất vẫn là qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.
Bên cạnh cảm nhận về bài thơ Đất Nước, gợi ý cho bạn 🌹 Mở Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 🌹 20 Mẫu Hay
Tiếp nối dòng mạch thơ ca yêu nước trong lịch sử văn học dân tộc, Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của đoạn trích Đất Nước này góp phần chứng tỏ tầm trí tuệ, sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành cùng thời đại kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.
Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.
Cùng với cảm nhận về bài thơ Đất Nước, khám phá thêm 💕 Kết Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm 💕 20 Mẫu Đặc Sắc
SCR.VN tiếp tục bật mí thêm cho bạn Bài Văn Cảm Nhận Về Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm
Trong những ngày tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Trị Thiên, Nguyễn Khoa Điềm đã có những xúc cảm, suy tư nồng thắm sâu sắc về đất nước về nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ đó, nhà thơ đi đến sự nhận thức đúng đắn về vai trò trách nhiệm của thế hệ thanh niên trí thức – những người chủ chân chính của đất nước, phải tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân để giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi xa hơn đến những tháng ngày mơ mộng.
Trường ca Mặt đường khát vọng hình thành trong bối cảnh ấy, và có thể xem chương Đất Nước là nơi dồn nén cảm xúc và kết tinh những suy tư có tính chân lý của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước và Nhân Dân, được chuyển tải qua những lời nghệ thuật dung dị, lại có khả năng truyền cảm sâu sắc đến bao thế hệ độc giả.
Mở đầu cho dòng suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức về sự tồn tại lâu dài của đất nước trong suốt “thời gian đằng đẵng” bốn ngàn năm văn hiến. Thi nhân khẳng định:
Âm hưởng của lời thơ lắng đọng như giọng kể chuyện tâm tình thủ thỉ giữa những kẻ thân thương, gợi ra ở người nghe dòng liên tưởng trôi về một thời quá khứ xa xăm, trong ấy trầm tích bao huyền sử tự hào về cuộc sống chiến đấu của cha ông. Nhà thơ đã sử dụng thi pháp tuyệt vời ở câu thơ bỏ ngỏ.
Sau trạng ngữ chỉ thời gian “Ngày xửa ngày xưa”…, lời kể của mẹ được chuyển sang cho người đọc tự liên tưởng hình dung về bao hình tượng đẹp một thời làm xôn xao tuổi mộng vàng như Thánh Gióng, Trần Quốc Toản, Mai An Tiêm… Cả một nền văn hoá, văn học dân gian với bao thần thoại, truyền thuyết phong phú làm sao có thể gói trọn trong mấy vần thơ. Thi nhân như trao cho người đọc chiếc chìa khoá để tự mình khám phá cái kho tàng văn hoá phong phú tổ tiên trao lại.
Lần về mảnh vườn cổ tích ấy, những ai có lòng chắc chắn sẽ tự mình chắt chiu được những giọt mật mà bồi dưỡng tâm hồn thiện chân, tìm đến một lẽ sống đẹp.Truy tìm về cội nguồn Đất Nước, khó ai có thể xác định minh bạch cái ngày tháng khởi thuỷ của nó, cho dù là nhà khảo cổ hay sử gia. Nguyễn Khoa Điềm lại xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam:
Không ai lấy tiêu chuẩn đo lường của nhà khoa học để bắt bẻ thi nhân. Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị.
Bởi lẽ, thẩm thấu vào các tế bào mỏng manh ấy, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống đẹp của con người Việt Nam.Trong tục cúng lễ, miếng trầu quả cau là biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến hồn thiêng những bậc đã khuất, là nhịp cầu giao cảm với tiền nhân. Miếng trầu gợi ra huyền sử tình yêu, nói lên mối quan hệ vợ chồng chung thuỷ, nghĩa anh em Tân – Lang trọn vẹn.
Và có lẽ từ đó, miếng trầu trở thành vật biểu trưng cho tình yêu và hôn nhân. Miếng trầu giúp dẫn mối tìm nhau, để cho con người phải lứa nên duyên, là nhân tố tạo nên bao đôi uyên ương chắp cánh chung cành. Để rồi khi họ về già, thong thả nhai miếng trầu, nhớ buổi thanh xuân tình nồng nghĩa đượm, mà đột nhiên nở nụ cười mãn nguyện chuyện tình xưa.
Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước từ buổi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Đất nước Việt có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp tạo điều kiện cho cây tre sinh sôi phát triển khắp mọi miền của Tổ Quốc, đem lại một màu xanh bát ngát cho quê hương. Nguyễn Duy cũng từng trăn trở về những phẩm chất kì lạ của cây tre Việt :
Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất đôi khi ngỡ là đối lập trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình như cây tre mềm mại để hoá thành những vật dụng xinh xắn trong cuộc sống con người: nhỏ nhắn như cây tăm, đôi đũa; êm ái như chiếc nôi ru ta lớn lên vào đời; yên ổn vững chắc như “cái kèo cái cột thành tên”, làm nên ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống như Nguyễn Duy so sánh:
Đến khi cả dân tộc lên đường ra trận, quyết giành lại độc lập tự do, thì tre cũng đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc Việt , thậm chí “một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ “, bởi “nòi tre đâu chịu mọc cong, chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.
Từ những giá trị vật chất bình dị thân quen, Nguyễn Khoa Điềm gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Đó không ai khác là những người mẹ, người cha một đời kính trọng thuỷ chung, “thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Tình cảm chân thành ấy không phải là lớp son phấn với “sắc màu lộng lẫy, sáo ngữ ồn ào”, mà là những nét duyên như búi tóc mẹ bới sau đầu gọn gàng ý nhị, đủ để làm cho con tim xao xuyến khi gần nhau, và khi xa thì không bao giờ nguôi ngoai nhung nhớ, để rồi họ bật lên những câu ca dao nghe như muối xát tâm can:
Nguyễn Khoa Điềm lại có một cách nhìn thấu triệt theo thời gian hao phí lao động để kết tinh một hạt gạo trắng trong. Nó phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng.Thắm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Nhiều người chỉ biết hưởng thụ hững hờ mà quên đi lời dạy “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, nên Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo nhắc nhở chúng ta nhai hạt cơm dẻo nên nhớ đến công lao của người làm ra nó, để không làm họ buồn lòng phải cất lời nhắc nhở:
Nguyễn Khoa Điềm thật tài tình, khi ông cụ thể hoá khái niệm đất nước trừu tượng lớn lao cả về chiều “thời gian đằng đẵng”, lẫn “không gian mênh mông” vào trong những hình ảnh nhỏ bé như hạt gạo, nhưng lấp lánh bao tầng ý nghĩa sâu sắc, có giá trị biểu trưng những nét bản chất và tinh hoa của dân tộc, của Đất Nước Việt Nam.
Đề cập đến hạt gạo là nói đến nền kinh tế nông nghiệp đặc trưng, được quy định bởi điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi của nước Việt. Nhân dân lao động gắn mình trong môi trường đất đai từ đời này qua đời khác, sẽ định hình nên những nét cốt cách của con người Việt . Họ yêu quý đất đến mức xem “Tấc đất tấc vàng”. Và vì vậy, họ sẵn sàng hiến thân vì non sông đất nước như Chế Lan Viên từng cảm xúc:
Tính triết lý trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc vừa đầy sức thuyết phục. Chỉ vài dòng thơ ngắn và tinh tế, thi nhân đã đi đến một kết luận có tính khẳng định “Đất Nước có từ ngày đó …” và do nhân dân lao động tạo dựng nên, để cho chúng ta hôm nay được thụ hưởng hạnh phúc một cách cụ thể thiết thực, chứ không hề là một tình cảm thuần tuý mơ hồ đã thuộc về quá khứ. Nguyễn Khoa Điềm giải thích một cách đơn giản:
Nhà thơ nhắc đến ngôi trường cái bến, một toạ độ lưu dấu kỷ niệm tình yêu. Các địa danh ngỡ là rời rạc riêng tư, nhưng thực chất đó là linh hồn của Đất Nước, là dấu ấn tình cảm sâu sắc của con người Việt . Ngôi trường là nơi cung cấp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống.
Dòng sông không chỉ mang phù sa màu mỡ làm xanh những cánh đồng mà là nguồn nước tắm mát đời ta, gắn bó đến mức như Hoàng Cầm mang theo hình ảnh con sông Đuống quê hương trong hồn với dáng nghiêng nghiêng dài theo cuộc kháng chiến. Và khi sông Đuống tạm thời bị quân giặc chiếm đóng, ông đau đớn bàng hoàng đến mức thốt lên lời than nhức nhối:
“Sao xót xa như rụng bàn tay”.
Nêu một địa chỉ hẹn hò mà thành Đất Nước nghe có vẻ mơ hồ, nhưng nó là minh chứng của tình yêu, là khởi phát của một gia đình, và có muôn nhà mới góp thành đất nước. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và Tổ Quốc, là sự thống nhất liền mạch mỗi tấc đất của quê hương, tồn tại trong “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”.
Trong ấy, bao thế hệ nối tiếp nhau quản lí đất nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ – “Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng mênh mang – nơi “Con cá ngư ông móng nước biển khơi”. Nguyễn Khoa Điềm với một tình cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt gợi ra cái chất keo đồng bào huyết mạch – yếu tố tạo nên tình đoàn kết “dân mình đoàn tụ” bên nhau đứng vững như Trường Sơn thử thách với bao mưa gió của trời, của đời.
Nguyễn Khoa Điềm trong chiều xúc cảm hướng nội, ông còn thấy ra Đất Nước đã thâm nhập vào trong chiều sâu của mỗi con người. Trong chính bản thân thi sĩ đã chan hoà bóng hình tinh hoa của đất nước, tan trong dòng máu thắm, vang lên trong âm điệu giọng nói ngọt ngào. Nhà thơ cảm nghiệm rằng:
Quả là tinh tế! Nguyễn Khoa Điềm như đang tự phân thân để kiểm chứng lại mình. Đất Nước trong ta hài hoà nồng thắm, thấy được qua màu da, giọng nói, nếp nghĩ, cách làm. Mang quốc tịch Việt , khi ta so sánh trong mối tương quan với bạn bè quốc tế, thì nhận diện sự khác biệt ấy không mấy khó khăn. Nó giúp ta tự hào với lịch sử anh hùng, với giang sơn cẩm tú, với dân tộc nhân ái bao dung, với mỗi con người thuỷ chung trách nhiệm, để rồi lòng dặn lòng rằng:
Nhà thơ với con mắt thăm thẳm nhìn sâu về “bốn nghìn năm đất nước”, lung linh trong cõi mênh mang sông núi Việt Nam ấy, không ai khác là Nhân Dân bình dị, nhưng:
Chân lí hiển nhiên là vậy nhưng không phải ai cũng ý thức. Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại và nhấn mạnh qua từ “Nhân Dân” viết hoa trân trọng ấy, thiết nghĩ không thừa đối với những kẻ phôi phai tình đất nước. Nhà thơ so sánh Đất Nước như một dòng sông chảy mãi từ quá khứ cho đến tương lai trường tồn cùng nhân loại. Trên dòng chảy ấy tất có những thác ghềnh, nhưng điều ấy có hề chi khi nhân dân là người chèo lái con thuyền Tổ quốc, thì nói như Bác Hồ: “khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Thi nhân đã khép lại dòng suy tưởng của mình bằng một giai điệu đầy lạc quan:
Tiếng hát của Nguyễn Khoa Điềm cất lên trong thời gian khó bởi cuộc chiến tranh chống Mỹ chưa thành, nhưng lịch sử luôn như dòng nước chảy xuôi ; vấn đề là con người “biết trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu”.
Hôm nay, nhìn lại Đất Nước vẹn tròn to lớn, dù kinh tế còn khó khăn, nhưng chúng ta lại có sức mạnh của độc lập tự do làm tiền đề căn bản, có nhân dân sáng tạo anh hùng, chắc chắn lớp con cháu hôm nay “sẽ mang Đất Nước đi xa, đến những tháng ngày mơ mộng” trong một tương lai không xa, để Nhân Dân từng chịu quá nhiều vất vả nhọc nhằn trong quá khứ có được cuộc đời hạnh phúc trong bầu không khí hoà bình thắm tình hữu nghị.
Gửi đến bạn 🍃 Sơ Đồ Tư Duy Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🍃 16 Mẫu Hay
Bài Cảm Nhận Bài Thơ Đất Nước Hay Nhất bên dưới sẽ cho bạn thấy rõ được những đặc điểm trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Thường có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng.
Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích “Đất nước” của trường ca Mặt đường khát vọng thể hiện sự cảm nhận đất nước một cách toàn vẹn trong cái nhìn tổng hợp theo chiều dài lịch sử, văn hóa, cũng như cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết hằng ngày. Đoạn thơ vừa giàu chất chất trữ tình vừa giàu chất suy tưởng với một giọng thơ vừa tha thiết vừa trang nghiêm, trầm lắng với những tìm tòi, khám phá mới lạ tiêu biểu cho bản sắc riêng của tác giả.
Trong đoạn trích này, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những xúc cảm và suy tưởng về đất nước dưới dạng kể lể, trò chuyện tâm tình có vẻ phóng túng theo nguồn cảm xúc tuôn trào dưới ngọn bút nhưng thật ra đất nước đã được nhà thơ cảm nhận một cách thống nhất, tập trung trên nhiều bình diện.
Tác giả cảm nhận và suy tưởng về đất nước theo chiều dài thời gian lịch sử – từ quá khứ đến hiện tại và hướng về tương lai. Đất nước hình thành từ xa xưa một quá trình suốt bốn ngàn năm lịch sử, trường tồn trong đời sống nhân dân, trong những sinh hoạt, những hình ảnh gần gũi của đời sống nhân dân:
Nghĩ suy về lịch sử đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại, các tên tuổi vua quan anh hùng mà coi trọng, nhấn mạnh vai trò công lao của những con người vô danh nhưng họ đã đóng góp biết bao công sức xây dựng và giữ gìn đất nước:
Tác giả khẳng định nhân dân ta làm ra đất nước không chỉ giữ nước mà còn sáng tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần:
Đất nước cũng còn là một không gian cụ thể, nơi sinh tồn của cả một cộng đồng dân tộc. Không gian, lãnh thổ ấy được tạo lập từ buổi sơ khai với những truyền thuyết về nguồn gốc tổ tiên:
Đất nước còn là cái không gian gần gũi, hình ảnh quen thuộc, thiết tha trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng ta, rất bình dị và xiết bao trữ tình:
Tư tưởng xuyên suốt đoạn thơ, bao trùm toàn đoạn là tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, chính quan niệm này, tư tưởng này đã chi phối, gợi mở nguồn cảm hứng và giúp nhà thơ sáng tạo hơn những hình tượng thơ mang đậm chất liệu của văn học dân gian. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân ” được biểu hiện bằng những hình ảnh, những chi tiết cụ thể. Mỗi hình tượng đều gợi nhớ những truyền thống của dân tộc, những sinh hoạt của nhân dân đậm đà tình nghĩa, đầy chất thơ:
Mỗi địa danh trên đất nước đều gắn với những tên tuổi nôm na, bình dị của nhân dân: Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Tư tưởng “Đất nước nhân dân” còn là biểu hiện bằng những nhận thức khái quát sâu sắc:
Đi vào chiều sâu, bề dày của văn học dân gian, tác giả khám phá những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của nhân dân – chính là những yếu tố làm nên cái hồn của đất nước. Những nét nổi bật của tâm hồn, tính cách dân tộc đó là những tâm hồn say đắm trong tình yêu, nhân hậu, nghĩa tình:
Tâm hồn nhân dân thật nhân hậu nghĩa tình nhưng khi cần phải đối phó với kẻ thù thì tính cách lại vô cùng quyết liệt:
Những cảm nhận và suy tưởng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được tác giả diễn tả bằng một hình thức thể hiện đặc sắc vừa quen thuộc vừa cách tân.
Câu thơ với tiếng dài, ngắn linh hoạt tạo một nhịp điệu phóng khoáng cùng với giọng kể tâm tình góp phần biểu hiện mạch cảm xúc tuôn chảy dạt dào khá tự do. Giọng thơ có nhiều chỗ trầm bổng, sâu lắng, thiết tha, âm vang càng lúc càng thấm sâu vào tâm hồn người đọc như những cơn mưa ngâu rất nhẹ nhàng càng lúc càng thấm sâu vào lòng đất:
Sự thay đổi kiểu câu, biến đổi giọng điệu linh hoạt làm tăng sức mạnh biểu hiện vừa trữ tình vừa giàu chất chính luận, khái quát, trí tuệ. Đoạn thơ rất giàu hình ảnh, vừa giản dị, gần gũi vừa có sức gợi cảm phong phú, gợi trí tưởng người đọc liên tưởng đến những hình tượng trong ca dao, truyện cổ, dân ca… Chỉ một câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm ” cũng đã gợi lên mấy câu ca dao ngọt ngào, đằm thắm biết bao:
Xem nhiều hơn 🌹 Bình Giảng Đất Nước 🌹 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
SCR.VN tiết lộ cho bạn đọc bài Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Ngắn Gọn để bạn thấy được những suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.
Chương V – ta quen gọi nó là bài thơ Đất Nước – có lẽ là chương hay nhất. Nó là nhận thức chín mùi của thế hệ trẻ Việt Nam về “Đất nước”. Nó là điểm tựa để họ xây dựng vai trò vị trí của mình trong cuộc đấu tranh vĩ đại chung của dân tộc.
Điều dễ nhận thấy đầu tiên là tác giả nhìn đất nước ở tầm gần vậy mà khuôn mặt đất nước rất gần gũi thân quen. Nó bình dân, lam lũ nhưng không kém phần cao cả. Cả nhà thơ đâu đó nói về Đất Nước dường như đồng nhất cảm xúc nói tới quê hương mình, Hoàng Cầm bao lần thốt lên trìu mến : “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng; ruộng ta khô; nhà ta cháy; quê hương ta từ ngày khủng khiếp”. Nguyễn Đình Thi và Tố Hữu nhìn đất nước trong không gian Việt Bắc. Có những câu thơ quan tâm đến nét hoành tráng, kì vĩ của đất nước:
Hoặc Nguyễn Đình Thi:
Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại nói chuyện với người yêu của mình bằng giọng tâm tình thủ thỉ:
Khi ta lớn lên… đánh giặc.
Nhà thơ đã nhìn Đất nước theo quan hệ ruộ rà thân thiết ta gặp mẹ cha ta, bà mình, dân mình, ta gặp những câu chuyệ cổ tích, nhìn phong tục ăn trầu của bà, nhìn những bờ tre và sự yêu thương nhau bằng “gừng cay muối mặn”, thậm chí: “cái cột, cái kèo, hạt gạo…” tất cả đó là Đất nước. Vậy là, những giá trị truyền thống về văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần đã có từ ngày xửa ngày xưa khởi đầu của nó vẫn duy trì đến bây giờ.
“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, nghe qua rất vô lí nhưng ngẫm suy thì nó lại nói lên được đặc trưng văn hoá nước Việt có thể nói là văn hoá trầu cau. Nó đã có một câu chuyện cổ tích, là phong tục được vị vua tổ Hùng Vương ban truyền, nó là vật để người ta giao đãi tình cảm… Miếng trầu là biểu tượng đặc trưng nhất của văn hoá trọng nghĩa, trọng tình của người Việt.
Có cách nhìn về Đất nước như vậy nên tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình cảm, ân nghĩa, thuỷ chung. Hình ảnh “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, câu thơ biết quí công “cầm vàng lặn lội” muốn nói chính là chữ tình sâu thẳm của người Việt.
Sau khi trả lời câu hỏi Đất nước có tự bao giờ Nguyễn Khoa Điềm muốn giả quyết câu hỏi thứ hai Đất nước là gì? Bằng cách đưa ra định nghĩa với mẫu câu: “Đất nước là nơi” – tác giả quan tâm đến cái bình dị không gian Đất nước, người đọc rất ngỡ ngàng và cảm thấy rất thi vị khi Nguyễn Khoa Điềm không ngần ngại nói Đất nước là những chuyện thầm kín, riêng tư bài ca Đất nước là của chúng mình.
Đất là nơi… em tắm.
Thành tố âm dương ấy hợp lại đã trở thành:
Đất nước… hò hẹn.
Và một áng văn tương tự đã bay qua nỗi nhớ để dịnh nghĩa Đất nước đầy e ấp và tình tứ:
Đất nước… nhớ thầm.
Chỉ có hai thành tố là đất và nước thế nhưng mỗi lúc tháo rời nó ra, nó dẫn ta vào mê cung huyền bí, vừa thân thuộc, vừa lạ lẫm vô tận y như một đứa trẻ cứ tháo ra rồi lắp lại mà vẫn chưa hết nỗi đam mê, nhà thơ của chúng ta cũng hồn nhiên làm cái điều ngộ nghĩnh ấy để cho thoả cái điều mình muốn nói.
Càng suy ngẫm đầy trách nhiệm đầy tư duy sắc sảo, đầy khám phá mới mẻ gây hứng thú cho người đọc. Định nghĩa Đất nước tác giả quan tâm đến không gian văn hóa nhưng cũng không quên cái thời gian văn háo đã làm nên một lịch sử dài đằng đẵng của cha ông. Lịch sử ấy gắn bó với địa danh, địa lí cụ thể những chi tiết rất đời thường bình dị đã cát lên thành lời thơ đầy xao xuyến tâm linh con người Việt Nam.
Hai tiếng “cúi đầu” đã gợi lên ấn tượng sâu đậm trong văn hoá tâm linh người Việt, đó là sự thầm kín, ngưỡng vọng thiêng liêng đối với cội nguồn, đối với sức mạnh tinh thần cưu mang và chở che con cháu của Tổ: Chính là cộng đồng từ bọc trứng Âu Cơ, là dân tộc là đất nước, nó là dòng họ gia đình, sợi khói nhang trên bàn thờ gia tiên có năng lực đánh thức tâm linh người Việt hơn tất cả. Nói về 4.000 năm lịch sử của cha ông chúng ta Chế Lan Viên rất tự hào với nữhng anh hùng, với những người con ưu tú của dân tộc.
Vậy là sau khi giải đáp hai câu hỏi: Đất nước bắt nguồn từ đâu? Đất nước là gì? Nguyễn Khoa Điềm đã đi vào phần hạt nhân của bài thơ: Ai đã làm ra Đất nước? tương tự như nói về địa danh, địa lí, nhà thơ không ca ngợi cái đẹp, cái trù phú như Hoàng Cầm:
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng…
Ở thơ Nguyễn Đình Thi:
Những cánh đồng thơm mát…
Nguyễn Khao Điềm chú ý nhiều đế những miền đất, những thắng cảnh mà tên gọi của chúng rát nôm na đậm đà chúng nói với ta nhiều điều vê cuộc sống cần lao:
Tiếp theo là những câu thơ có tầm khái quát:
Và ở đâu… núi sông ta.
Với cách dẫn dắt câu chuyện như vậy, nhà thơ đã phát biểu trực tiếp tư tưởng “Đất nước của Nhân dân”.
Nhân dân đông đảo, nhân dân bao dung làm nên dáng vẻ, tầm vóc của đất nước. Họ là những người chân đất sáng suốt đã đúc kết những triết lý cao cả mà ta hằng tâm niệm mà ta thuộc về nhân dân nên ca ngợi dất nước có quyền nói về đời riêng của mình. Hàng loại các đại từ họ đã nói lên vai trò của nhân dân.
Những người sáng tạo văn hoá vật chất và tinh thần : “Họ giữ, họ truyền lửa, họ truyền giọng điệu, họ gánh theo, họ đắp đập”. Hàng loạt những từ “giữ” và “truyền” rồi “gánh, đắp đập, be bờ” đã tạo nên độ dày của bề mặt văn hoá , đã nổi lên hình tượng nhân dân sáng tạo ra đất nước bằng cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức để lưu truyền mãi ngọn lửa văn hoá qua các thế hệ. Các nhà thơ khác nhau thời kháng chiến chống Mỹ có khuynh hướng ca tụng đất nước ở tầm vóc quốc tế:
Tư tưởng đất nước của nhân dân được rất nhiều nhà thơ nói tới. Tuy nhiên các tư tưởng không phải lạ lẫm gì này được Nguyễn Khoa Điềm nói bằng tất cả sự trải nghiệm và xúc động thật sự của chính mình. Ông đã đưa vốn trí thức về văn hoá dân gian cộng với suy ngẫm nghiêm túc tạo cho bài thơ vừa thuyết phục lí trí lại da diết trữ tình. Đất nước này chính là của nhân dân, trong nhân dân có anh và em vì thế tác giả nghiêm trang đề nghị:
Em ơi em…muôn đời.
Rất tự nhiên không hề bị lên gân giả tạo, văn hoá trọng chữ tình sẽ là lối cư xử uống nước nhớ nguồn.
Chưa bao giờ thơ ca Việt Nam lại nở rộ những vần thơ đất nước như thời chống Mỹ:
Đó là đất nước của những đoàn quân:
Và:
Do có đóng góp riêng rất độc đáo, Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chinh phục được lòng độc giả từ khi nó ra đời. Và nó có lẽ sẽ chịu đựng được những thử thách của thời gian. Chúng ta ai chẳng có một tình yêu Tổ Quốc và có lúc ta phải thốt lên lời của Nguyễn Khoa Điềm:
Tiếp theo đón đọc 🌻 Phân Tích Bài Thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Hay Nhất
Từ bao đời nay, đất nước luôn là đề tài muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ, nhà văn từ khắp mọi miền, tình yêu quê hương đất nước dường như đã đi vào từng câu hát, từng lời văn, lời thơ. Không giống như đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Hoàng Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài đất nước hiện lên thật đầy đủ và trọn vẹn. Bài thơ “Đất nước” của tác giả xoay quanh cuộc sống sự gần gũi, bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường, mạnh mẽ vươn lên trên mọi sóng gió.
Ngay từ đầu, những vần thơ đầy nhẹ nhàng, bình dị đến thân thương đã dẫn dắt người đọc trở về thuở sơ khai, khi đất nước mới được sinh ra:
Bằng những lời thơ bình dị mà tinh tế, khái niệm “Đất nước” đã được nêu lên thật cụ thể. Đất nước hiện ra thật đẹp đẽ, giản đơn mộc mạc hơn bao giờ hết, không biết có từ bao giờ, chỉ biết trong những câu chuyện mẹ kể từ rất bé thì đất nước đã có rồi. Người đọc như được dẫn dắt trở về với quá khứ, với những điều thân quen đầy nhưng nhớ “ngày xửa ngày xưa”, một khoảng
Không gian dài đằng đẵng hiện lên, thật xa vời nhưng cũng gần gũi đến lạ thường. Không xác định được một mốc dấu cụ thể, chính xác. Tiếp theo, đất nước được hiện lên qua miếng trầu bà ăn, qua hình ảnh những lũy tre xanh bên làng quanh năm mưa nắng nhọc nhằn.
Đất nước đã lớn lên và vượt qua bao khó khăn từ khi người dân mình biết trồng tre đánh giặc, bảo vệ xóm làng, bảo vệ từng tấc đất thân yêu của quê hương. Hay cả những hình ảnh thật đơn giản, nhưng lại có một tình cảm dào dạt chan chứa, là hình ảnh mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rồi cả những hình ảnh mộc mạc tưởng như vô tri, vô giác nhưng lại mang một linh hồn của sự sống “cái cột”, “cái kèo”, hạt gạo tinh trắng tượng trưng cho hình ảnh đẹp đẽ của đất nước trải qua biết bao thăng trầm, chông gai.
Đất nước được thấy qua cái nhìn đơn giản của người dân lao động chất phác, chân lấm tay bùn nhưng tình cảm vẫn luôn nồng nàn, đằm thắm.
Bằng những lời thơ bình dị như thế, đất nước tiếp tục được nhà thơ vẽ ra qua cái nhìn của một tình yêu trong sáng, thuần khiết lứa đôi:
Đất Nước là nơi hẹn hò, là nỗi nhớ thầm da diết. Một sự hội tụ đầy tương xứng đẹp đẽ đến bất ngờ, sự nảy mầm và ra hoa kết trái của Đất-Nước như chính tình yêu xanh tươi được vun đúc để tạo thành nỗi nhớ vô bến bờ. Đất nước được hình thành từ chính những tình yêu lứa đôi chung thủy, mặn nồng hòa quyện vào tình yêu to lớn của quê hương đất nước.
Không phải là một khoảng không thênh thang, rộng lớn bao la, Đất nước còn hiện hữu trong chính không gian sinh hoạt, cuộc sống bình dị của người dân:
Như quay ngược thời gian, mảnh đất đầu tiên đã có, những người con đất việt đầu tiên đã đặt chân lên cái nền móng của quê hương từ thời tổ tiên Lạc Long Quân và Âu Cơ:
Cội nguồn của một dân tộc hào hùng dần lộ ra qua những lời thơ quá rõ ràng của tác giả. Khẳng định chắc chắn rằng đất nước đã có từ rất lâu, từ thời Lạc Long Quân và Âu cơ, những người tổ đã khai hoang nên mảnh đất màu mỡ, xanh tươi của cuộc sống với biết bao trang sử hào hùng, lẫm liệt.
Hay đất nước lại trở về với sự gần gũi quanh ta, về với mái nhà của sự yêu thương, che chở:
Tác giả như khẳng định một trách nhiệm to lớn cho thế hệ đi sau, nó như một cây cầu còn dang dở trên con đường đi tới ngày mai của đất nước. Không chỉ có vậy, đất nước vẹn tròn, to lớn khi tất cả mọi người cùng nắm tay, cùng nhau xây dựng, vun đắp nên một đất nước hòa bình, tươi đẹp.
Và hơn thế nữa, đất nước sẽ còn đi xa, đi tới những chân trời mộng mơ, và mãi trường tồn vững vàng:
Gánh nặng như được sẻ chia cho thế hệ sau, giữ gìn đất nước hòa bình và luôn thật tươi đẹp để có thể vươn xa hơn trong tương lai. Như một lời nhắn nhủ đầy tha thiết, dạy cho con cháu phải biết sống và đấu tranh cho chính quê hương thân yêu, san sẻ và gắn bó cùng đất nước như chính xương thịt, ruột gan của mình để làm nên Đất Nước muôn đời.
Đi sâu vào từng ngõ ngách trên đất nước Việt Nam, tác giả đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ những núi non trập trùng, hiên ngang như chính dáng hình đất nước, cả những dòng sông sâu thẳm, nước xanh một màu. Đất Nước hiện hữu khắp mọi nơi, tác giả như muốn nói rằng đất nước là do nhân dân làm nên từ muôn đời bằng chính tình yêu nồng thắm, chân thành:
Bằng ngòi bút ví von mà chân thực tác giả Nguyễn Khoa Điềm lần lượt vẽ nên những chiến công hiển hách của cha ông ta. Là hình ảnh những người con đất Việt hi sinh cả tuổi xuân, cả cuộc đời mình để góp xương, góp máu cho Đất nước, để lại con thơ, vợ hiền da diết ngóng trông. Là tình yêu vững bền như những tảng đá lớn, đứng hiên ngang chẳng ngại gió mưa. Những vết dấu oai hùng, dũng mãnh bước qua để đời đời còn nhắc mãi,…
Đất nước có một phần xương máu của những con người bất khuất, trung kiên, một đời vì Đất nước, nguyện hi sinh tất cả để đất nước được trường tồn hơn bốn nghìn năm và lâu hơn thế. Vẽ ra bức tranh toàn cảnh rộng lớn của đất nước, sự tươi đẹp của non sông gắn liền với những trang sử hào hùng của cả một dân tộc.
Để làm nên một người anh hùng thì có biết bao nhiêu người anh hùng đã ngã xuống, mà không ai biết tên họ, không ai còn nhớ. Để làm ra đất nước những vị anh hùng dân tộc đã ngã xuống không một chút do dự, nuối tiếc, sẵn sàng đánh đổi tất cả để thấy được sự tươi đẹp của Đất Nước mai sau:
Cuộc chiến không lại từ đấy, bàn tay chai sạn vì cầm súng lại tiếp tục cầm cuốc, cầm cày tiếp tục xây dựng đất nước. Bảo vệ Đất nước khỏi nòng súng giặc ngoại xâm rất gian nan, nhưng công cuộc sản xuất kinh tế để làm nên Đất nước giàu mạnh cũng chẳng hề dễ dàng. Họ tiếp tục truyền lửa cho thế hệ sau, không bao giờ quên ơn đức của thế hệ đi trước và tiếp tục làm nên lịch sử đời đời của dân tộc, của Đất nước:
Tình yêu Đất Nước như được truyền đời đời, khắc sâu vào trong trái tim của mỗi con người Việt Nam, tình yêu đó chợt cất lên thành những câu hát thân thương hay là cả một truyền thống văn hóa trăm sắc màu:
Bằng lời văn giản dị mà tinh tế, đầy sức thuyết phục đã làm rõ nét hình ảnh Đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Dáng vẻ Đất Nước đầy thân thương như chẳng thể nào phai mờ trong những thứ nhỏ nhặt nhưng không chút tầm thường.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Và ấn tượng ta lại có một Nguyễn Khoa Điềm với hình tượng đất nước mang âm hưởng sử thi, bắt nguồn từ những huyền thoại, một đất nước có quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại, một đất nước của nhân dân và bắt nguồn từ nhân dân. Có thể nói Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ mang đậm phong cách triết luận trữ tình mà ở đó người ta thấy yếu tố trữ tình và triết luận hòa hợp với nhau một cách chặt chẽ và xuyên suốt, xuất phát từ vốn kiến thức sâu rộng của nhà thơ về bề dày văn hóa và lịch sử của dân tộc.
Nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm tức là nhắc đến một nhà thơ có phong cách viết thơ triết luận đậm đà, ông luôn có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng triết lý sắc sảo cùng với những giá trị truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam ta.
Đọc thơ ông ta phát hiện ra rằng, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có sức liên tưởng mạnh mẽ, ông hết đưa người đọc đi từ quá khứ đến hiện tại, rồi lại dẫn từ những đau thương vất vả đến hạnh phúc, vui vầy, đưa nhận thức của con người từ sách vở khô khan bước ra đến với thực tiễn, lái từ tình cảm gần gũi, thân thuộc sang đến cảm xúc hào hùng, bi tráng.
Đặc biệt trong Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chính cái chất trữ tình để thể hiện tính triết luận sâu sắc với chất liệu văn hóa dân gian mà có người đã nhận xét rất đúng rằng “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ”.
Trước hết tính triết luận trữ tình trong Đất Nước thể hiện ở lòng tự hào về cội nguồn dân tộc.
Xuất phát từ tư tưởng triết lý hài hòa âm, dương, vạn vật đều có đôi có cặp của người Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn ta về với truyền thuyết Lạc Long Quân và u Cơ, với chiếc bọc trăm trứng nở ra trăm người con. Tuy nhiên nhà thơ sẽ không chỉ đơn giản dừng lại ở việc gợi nhắc lại truyền thuyết mà ở đoạn thơ trên còn có một sự liên tưởng sâu xa.
Trong văn hóa cổ xưa hình ảnh Chim vẫn luôn tượng trưng cho bầu trời phương Nam, điều này xuất phát từ những truyền thuyết về việc chim Lạc bay về phương Nam mở đất, thêm vào đó hình tượng Rồng lại là thần thú của đại diện cho các quốc gia phương Đông.
Như vậy sự tương ứng giữa hai chỉnh thể Nước – Chim và Đất – Rồng cùng với sự tích Lạc Long Quân – u Cơ giải thích về dòng giống Tiên, Rồng của người Việt đã trở thành một sự suy luận hợp lý làm tiền đề khơi mào cho khái niệm hoàn chỉnh của về Đất Nước, một nước Nam ở phương Đông. Quả thật là một tư tưởng triết luận sâu sắc.
Nguyễn Khoa Điềm cũng suy luận về cơ sở Đất Nước dựa vào chính nền nông nghiệp lúa nước đã có từ lâu đời ở nước ta trong câu thơ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng/ Đất nước có từ ngày đó”. Chính nền văn hóa lúa nước đã dựng xây và hình thành nên Đất Nước, chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam.
Từ chính những hạt thóc, hạt lúa nhỏ bé ấy đã làm nên Đất Nước, đã dựng xây nên một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, và ngày hôm nay nó đã mạnh mẽ trở thành nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới.
Không chỉ thế từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với văn hóa làng, xã truyền thống rất đặc trưng của dân tộc Việt Nam.
Mà theo như Nguyễn Khoa Điềm, theo phong cách triết luận của ông thì chính những con người dung dị, tầm thường, không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm nên Đất Nước, chính họ đã sống bình tâm, an lành, miệt mài lao động, xây xóm, dựng làng trên khắp mọi miền đất nước và rất nhiều xóm làng với những sinh hoạt đậm nét truyền thống như vậy đã làm nên một Việt Nam thuần nông chất phác.
Một lần nữa ta tách biệt Đất Nước thành hai yếu tố Đất và Nước, hai yếu tố tối cần trong nông nghiệp và trở nên rất gần gũi quen thuộc đối với mỗi người dân Việt, từ đó khái niệm Đất Nước trong tâm tưởng của mỗi người nông dân đã không còn trở nên quá xa lạ mà đã được Nguyễn Khoa Điềm lý giải một cách tinh tế, sâu sắc.
Cuộc sống của người trồng lúa đã gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, và sinh sống dựa vào môi trường sông nước, nên đôi khi trong tiềm thức Tổ quốc hay quốc gia cũng chỉ gọi ngắn gọn bằng một chữ Nước mà vẫn đầy đủ ý nghĩa.
Phong cách triết luận của Nguyễn Khoa Điềm còn nằm ở cái cách ông đưa các chất liệu văn học dân gian vào thơ của mình, mà ở đó Đất Nước được phô bày với tất cả những vẻ đẹp vừa đậm đà bản sắc vừa có chất lung linh huyền ảo từ những câu chuyện xa xưa vận vào. Đó là một Đất Nước bước ra từ màn sương khói xa xăm của truyền thuyết, thần thoại và ca dao cổ.
Và cả trong “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để gợi nhắc về những nét tính cách thủy chung, son sắt của người Việt, một chất liệu đã từng nằm trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, nét tính cách đẹp ấy góp vào truyền thống của dân tộc để dựng xây nên Đất Nước. Và rồi Đất Nước cũng bước ra từ những câu chuyện cổ tích từ những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” rất thân thương và gần gũi với mỗi con người ngay từ thuở còn nằm ngửa trong nôi, nghe mẹ ru hời.
Đất Nước cũng hình thành từ những phong tục tập quán lâu đời của người Việt, đó là một thành tố quan trọng để hình thành nên một quốc gia, là nét đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác, là lòng tự tôn của dân tộc. Mà trong Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm đã đề cập đến bằng những câu thơ rất hay có sự liên kết, gắn bó với nhau thành một chỉnh thể về phong tục tập quán của dân ta.
Từ miếng trầu trong “Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn”, khiến người ta liên tưởng đến tục ăn trầu nhuộm răng có từ thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước, đồng thời cũng hướng về một câu chuyện cổ tích nổi tiếng Tấm Cám, như vậy chính ra Đất Nước gắn với miếng trầu vừa đủ cả hai yếu tố cổ tích và yếu tố hiện thực trong phong tục tập quán của dân tộc.
Rồi từ tục ăn trầu nhuộm răng với quan niệm “Cái răng cái tóc là góc con người” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục mở rộng suy tưởng của mình sang đến tục búi tóc thấp của đàn bà, con gái Việt trong “Tóc mẹ thì thì búi sau đầu”.
Không chỉ dừng lại ở đó, từ mái tóc của người mẹ nhà thơ tiếp tục liên kết đến cách đặt tên cho đứa con trong câu “Cái kèo, cái cột thành tên”, trong ý thức tâm linh của người Việt xưa việc đặt tên con càng xấu thì đứa trẻ càng không thu hút sự chú ý của quỷ thần, ma mãnh để mà bình yên lớn lên, tình cảm yêu thương gắn bó trong gia đình cũng được hiện lên một cách nổi bật như vậy.
Có thể nói rằng những nét phong tục tập quán độc đáo mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào triết luận thơ đã làm cho chỉnh thể Đất Nước càng thêm vững chắc, sâu đậm, thêm linh thiêng, xứng danh một đất nước hơn 4000 năm văn hiến với những vẻ đẹp căng tràn chất hiện thực lẫn chất huyền thoại.
Bên cạnh tư tưởng triết luận Đất Nước được hình thành và tạo dựng trong các phạm trù văn hóa truyền thống, thì Nguyễn Khoa Điềm còn mở ra một hình tượng Đất Nước được gây dựng từ những truyền thống lịch sử xuyên suốt từ thuở dựng nước cho đến tận ngày hôm nay và nó được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau trong Đất Nước. Thứ nhất Đất Nước của một dân tộc có truyền thống đánh giặc giữ nước, truyền thống nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của cả một dân tộc “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”.
Và phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, căm ghét giặc cỏ, thói mọi vô cùng, quyết tâm đánh đuổi đến cùng:
Không kể là đàn bà hay đàn ông, họ đều sẵn sàng chiến đấu sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đất Nước mà không nao núng. Truyền thống ấy đã có từ thời Phù Đổng Thiên Vương thuở vua Hùng thứ 6 chiến thắng giặc n xâm lược, rồi cưỡi ngựa sắt trở về trời để lại những dấu tích huy hoàng, oanh liệt.
Và cuối cùng tổng kết lại, tất cả những quan điểm triết luận của Nguyễn Khoa Điềm đều hướng về một quan niệm dân chủ truyền thống: Đất nước của nhân dân, do nhân dân gây dựng mà có. Chính bản thân ông khi nói về Trường ca Mặt đường khát vọng ông cũng thể hiện rất rõ ràng tư tưởng triết luận, chính luận xuyên suốt được ông dùng phong thái trữ tình diễn đạt, rằng: “Ý tưởng xuyên suốt của tôi trong chương này là thể hiện một Đất nước của nhân dân, do đó, từ ngữ, hình ảnh, chất liệu thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý tưởng này”.
Ở đó hình ảnh nhân dân đã hiện lên thật mạnh mẽ, kiêu hùng và thẳng thắn, chân thật “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại/Để Đất Nước này là Đất nước của Nhân dân”. Chính nhân dân đã làm nên Đất Nước, gây dựng đất nước bằng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bằng những chất liệu văn học dân gian, bằng phong tục tập quán lâu đời.
Từ hình tượng Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm làm nổi bật hình tượng nhân dân một cách vừa cụ thể vừa khái quát hóa, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước, điều ấy thể hiện trong một đoạn thơ khá dài:
Về yếu tố trữ tình, chủ yếu thể hiện trong giọng điệu thơ tha thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm tìm về tận cội nguồn, dốc hết sức liên tưởng, triết luận để phác họa ra một Đất Nước hòa chỉnh từ văn hóa đến lịch sử và cả nhân dân.
Từ lòng yêu nước thiết tha nồng đượm ấy đã mở ra những tình cảm khác ấy là lòng yêu và trân trọng những giá trị văn hóa có bề dày lịch sử, tấm lòng tự hào trước những phẩm chất tốt đẹp của người Việt, trước thiên nhiên, trước những thành tựu do nhân dân gây dựng nên từ hạt gạo nhỏ bé cho đến Đất Nước lớn lao. Cuối cùng chính là tấm lòng biết ơn sâu sắc, luôn hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng và gìn giữ của Nguyễn Khoa Điềm trong từng câu thơ.
Bằng phong cách triết luận, trữ tình sâu sắc Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một Đất Nước với dáng hình mới mẻ, khác hẳn so với các nhà thơ cùng thời, một Đất Nước nồng đượm phong vị của chất liệu văn hóa dân tộc, của hơi thở lịch sử kiêu hùng. Một Đất Nước gần gũi và chân thực, các yếu tố cấu thành có sự liên kết chặt chẽ, văn hóa và lịch sử vừa tách rời vừa thống nhất cùng với nhân dân làm nên Đất Nước – hai tiếng yêu thương.
Không chỉ có cảm nhận về bài thơ Đất Nước, có thể bạn sẽ thích 🔥 Bình Giảng Tây Tiến 🔥 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Đoạn Đất Nước trích gần chọn chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, thể hiện khá tập trung những cảm nhận sâu sắc và có phần mới mẻ về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Nếu không đọc kĩ trọn vẹn trường ca Mặt đường khát vọng dễ nhầm tưởng rằng dường như chương V này không đề cập trực tiếp đến các vấn đề của thanh niên trí thức miền Nam, không nói đến hiện thực sôi động trong cuộc chiến đấu trong các thành thị miền Nam thời Mĩ – Ngụy, do đó nó không thật gắn bó chặt chẽ với toàn bộ tác phẩm.
Song, thực ra chương này lại là hạt nhân quan trọng nhất của tác phẩm: Sự ý thức về đất nước, về nhân dân đã dẫn đến sự ý thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ, trong cuộc chiến tranh oanh liệt vì đất nước, vì nhân dân.
Trong văn học Việt Nam, đất nước vốn là một đề tài lớn. Điều đó có thể giải thích bằng đặc điểm quá trình lịch sử đấu tranh sinh tồn của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm phải liên tục chiến đấu gìn giữ đất nước, hơn ai hết, người Việt Nam luôn luôn gắn bó sâu nặng với đất nước, với đồng bào.
Trong văn học viết thời phong kiến đã có những kiệt tác viết về đất nước như bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt, Bài cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đề tài này thường xuyên xuất hiện trong văn học: Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước nổi tiếng chủ yếu thời kì chống Pháp.
Cùng thế hệ với Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh… đều có những tác phâm thể hiện đề tài đất nước, ở đề tài này, các tác giả ghi nhận những thành công nhất định. Nhưng đoạn trích Đất Nước nói riêng, và trường ca Mặt đường khát vọng nói chung vẫn chiếm được cảm tình của người đọc bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nâng đến cho đề tài này một số nội dung có phần mới mẻ và một cách phô diễn khá độc đáo, hấp dẫn, không giống bất kì cây bút nào đi trước.
Cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu thật bình dị. Dưới góc nhìn và cảm nhận của nhà thơ trẻ (khi viết trường ca này Nguyễn Khoa Điềm mới 28 tuổi, nhưng có học vấn cử nhân văn khoa), đất nước là những gì vô cùng gần gũi, bình dị, gắn bó thật sâu nặng với mỗi con người, mỗi gia đình, hiện diện từng giây, từng phút trong cuộc sống thường nhật vừa lả trừu tượng, song lại hết sức cụ thể đối với từng thành viên.
Theo tác giả, đất nước chẳng có gì xa lạ. Đất nước có trong những câu chuyện mà mỗi bà mẹ kể cho con nghe hay bắt đầu bằng câu “Ngày xửa ngày xưa…”. Đất Nước còn lả những tập quán lưu giữ từ ngàn đời nay, biểu hiện ở miếng trầu bây giờ vẫn ăn, hay thói quen “bới tóc sau đầu” của mẹ. Đất nước còn là mối quan hệ thủy. chung son sắt giữa người với người cùng sống trên dải đất Việt Nam.
Điều ấy, trước hết được chứng minh bằng quan hệ bền vững trước sau của mẹ với cha – của vợ với chồng. Trong căn nhà đơn sơ, bao thế hệ người Việt Nam đã sinh con đẻ cái, cần mẫn, lam lũ sớm trưa không bao giờ thiếu mái rạ, cây tre. Trong căn nhà rất đỗi quen thân ẩy, không thể thiếu cái kèo, cái cột… Đây cũng chính là đất nước!
Cái mới lạ, sức hấp dẫn ở đoạn thơ này chính là cách nói hết sức bình dị của nhà thơ. Điều này đã khơi dậy trong tiềm thức sâu xa của người đọc những kỉ niệm, những ấn tượng về một quê hương Việt Nam, con người Việt Nam quen thuộc gần gũi mà bất kì một người đọc nào cũng đã từng chứng kiến, khiến họ không khỏi bồi hồi xao xuyến nhận ra: Trong đất nước có một phần máu thịt của mình.
Tiếp tục mạch cảm hứng ở khổ đầu, đến khổ thơ tiếp theo, nhiều khi Nguyễn Khoa Điềm tách riêng hai yếu tố đất và nước. Đất nước chính là sự hợp thành của hai yếu tố đất và nước. Nó luôn gần gũi với cuộc sống mỗi người:
Tiếp theo, nhà thơ cảm nhận đất nước qua độ dài vô tận của “thời gian đằng đẵng” lẫn độ dài vô tận của “không gian mênh mông”. Và thời gian không chỉ dài mà điều quan trọng hơn là trên nền thời gian ấy đã có bao biến thiên lịch sử vừa chân thực vừa phảng phất chất huyền thoại. Đồng bào ta vẫn tự hào là con Rồng cháu Tiên, cha là Lạc Long Quân và mẹ là Âu Cơ.
Như vậy thời gian chủ yếu được cảm nhận trong chiều sâu của lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, của dân tộc. Không gian vừa là núi cao sông rộng, muôn trùng núi bạc, bát ngát biển khơi, lại vừa là nơi sinh sống của bao nhiêu người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác:
Đất nước gắn bó thân thiết với mỗi con người, khi tuổi ấu thơ “Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm” cũng như khi ta lớn hơn bước vào đời “Yêu nhau và sinh con đẻ cáỉ”
Bởi vậy như một tất yếu, mỗi thành viên phải có nghĩa vụ đối với đất nước này. Nhờ sự dắt dẫn ở phần trên, nhờ xúc cảm chân thành, lời nhắn nhủ có vẻ như là “hô khẩu hiệu” của tác giả, ở phần sau được người đọc chấp nhận một cách khá tự nhiên, rất ít có cảm giác sống sượng:
Như vậy, đất nước được cảm nhận một cách khá phong phú, có sự kết hợp hài hoà trên nhiều lĩnh vực: những phong tục lâu đời, những truyền thống văn hoá, giữa không gian và thời gian, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái to lớn hùng vĩ với những sinh hoạt thường nhật của mỗi một con người.
Nếu một số tác phẩm trước đây, đất nước được biểu hiện bằng một giọng điệu trang trọng, uy nghi, chủ yếu với những hình ảnh lớn lao, thì ở Mặt đường khát vọng đất nước được thể hiện bằng những hình ảnh gần gũi với một giọng thơ thiết tha lắng đọng, ý thơ được phát triển một cách khá tự do, tự nhiên; nhưng đoạn thơ vẫn đảm bảo được kết cấu hợp lí.
Điều đặc biệt đáng lưu ý là tác giả đã sừ dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo vốn hiểu biết phong phú về văn hoá dân gian. Chẳng hạn, muốn diễn đạt ý tường đất nước ta có từ lâu đời, tác giả cho người đọc liên tường đến kho tàng truyện cổ tích. Truyện cổ tích thường bắt đầu bằng lời kể Ngày xửa ngày xưa…
Tiếp đến nhà thơ giúp người đọc nhớ đến truyện Trầu cau bất hủ bằng câu: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Và mấy ai không nghĩ đến truyền thuyết Thánh Gióng, khi đọc câu thơ “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Còn câu “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn chính là sự vận dụng tuyệt vời câu ca dao từng làm rung động con tim bao người Việt Nam:
Song, cũng có lúc tác giả trích nguyên văn một số câu dân ca:
Cho dù chỉ sử dụng ý trong ca dao trong các truyện dân gian, hay là trích nguyên văn, nhìn chung Nguyễn Khoa Điềm đều tạo nên được những câu thơ những ý thơ mới. Những ý thơ này gắn bó một cách khá chặt chẽ với nhau, chẳng hạn, đang nói chuyện “ngày xửa ngày xưa”… nhà thơ chuyển đột ngột đến bây giờ (Đất là nơi anh đến truờng – Nước là nơi em tắm). Rồi từ đó, tác phẩm lại dẫn người đọc vào thế giới xa xưa với dân ca và truyền thuyết( truyện Sự tích trăm trứng, dân ca xứ Huế…)
Cách diễn đạt ấy khá khêu gợi trí tường tượng người đọc. Các yếu tố văn hóa dân gian đã góp phần không nhỏ biểu hiện tư tưởng cốt lõi của tác phẩm Đất Nước của nhân dân. Đồng thời nó tạo được ở người đọc ấn tượng sâu sắc về đất nước Việt Nam phong phú, sống động lạ thường, muôn màu muôn vẻ dài theo không gian và thời gian, gần gũi thân thiết với từng con người Việt Nam.
Bên cạnh cảm nhận về bài thơ Đất Nước, tiếp tục tham khảo 🔥 Phân Tích Tây Tiến 🔥 Tuyển Tập Những Bài Hay Nhất
Không biết từ bao giờ, hình tượng đất nước đã đi vào thơ ca Việt Nam một cách tự nhiên đến thế. Biết bao áng văn, áng thơ đã viết về hình tượng này nhưng mỗi nghệ sĩ lại có những cách nhìn nhận riêng. Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước là những gì gần gũi và thiêng liêng nhất.
Trong toàn bộ đoạn trích “Đất Nước”, tác giả đã khắc họa hình tượng đất nước qua nhiều phương diện khác nhau như lịch sử, văn hóa, không gian, thời gian.
Vậy là đất nước đã xuất hiện, ra đời từ rất lâu rồi. Ngược theo dòng lịch sử thì đất nước ta đã có từ hơn bốn ngàn năm về trước. Đất nước hiện hữu trong những câu chuyện cổ tích của mẹ, trong miếng trầu của bà và “lớn lên” khi dân ta biết trồng tre làm vũ khí đánh đuổi quân xâm lược để bảo vệ nước nhà. Đất nước giống như một sinh thể sống, có quá trình sinh ra, lớn lên và tồn tại song song với cuộc sống của con người. “Miếng trầu bà ăn” gợi chúng ta nhớ đến sự tích “Trầu cau”.
Ngoài ra miếng trầu còn là “đầu câu chuyện”, người ta thường mời nhau ăn trầu để thể hiện sự hiếu khách, lịch sự của mình. Chi tiết “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” khiến bạn đọc liên tưởng đến truyền thuyết “Thánh Gióng” – người đã nhổ những bụi tre ven đường để quật vào giặc n khiến chúng bỏ chạy tan tác. Không chỉ vậy, đất nước còn gắn liền với các phong tục tập quán của nhân dân ta như tục búi tóc sau đầu của người phụ nữ Việt, lối sống tình nghĩa thủy chung, thương nhau gừng cay muối mặn.
Từ khi có đất nước, nhân dân ta biết lấy tên cái kèo, cái cột để đặt tên cho các con với mong muốn các con sẽ khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Từ khi ấy, nhân dân ta cũng biết lao động cần cù để làm ra hạt gạo, phục vụ nhu cầu sống hàng ngày. Đất nước không chỉ “bắt đầu”, “lớn lên” mà còn trưởng thành, vững chãi, hùng mạnh hơn sau những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm và các thế lực thù địch âm mưu phá hoại đất nước.
Đất nước hiện hữu từ trong những gì bé nhỏ, bình dị và thân thuộc nhất của cuộc sống đời thường. Nó hiện diện trong các loại hình văn học dân gian, hiện diện trong các phong tục tập quán, những truyền thống, lối sống của nhân dân ta và hiện diện cả trong “anh”, trong “em”:
Đất nước là một phần máu thịt của mỗi con người, gắn bó với cuộc đời riêng của mỗi chúng ta:
Song hành cùng “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông”. Nhà thơ chiết tự hai từ “Đất” và “Nước” để bạn đọc hiểu rõ hơn về hai tiếng gọi cao quý, thiêng liêng ấy. Đất Nước gắn với những bước chân của “anh” đến trường, nơi “em” tắm, nơi “ta” hò hẹn, nơi “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
Tác giả nhận ra những gì nhỏ bé, giản đơn nhất cũng góp phần không nhỏ để làm nên đất nước. Ông ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam, ca ngợi những phong tục tập quán mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam từ bao đời nay.
Vẻ đẹp hình tượng đất nước được tạo nên bởi sự thống nhất, hài hòa của nhiều phương diện. Đất nước trở nên đẹp hơn trong khoảnh khắc dân mình đoàn tụ. Đó là lối sống nghĩa tình, là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Đất nước máu xương, là tâm hồn nên mỗi chúng ta phải biết:
Đất nước đẹp như vậy nên mỗi người cần có trách nhiệm gắn bó, phát triển đất nước để đất nước ngày càng giàu đẹp.
Đất nước được tạo ra bởi những con người vô danh nhưng họ lại vô cùng anh dũng:
Họ không được tất cả mọi người nhớ mặt, nhớ tên nhưng họ đã kiên cường chiến đấu để các thế hệ sau có được một đất nước như ngày hôm nay. Họ sống giản dị, lặng lẽ cống hiến và hi sinh cho dân tộc. Họ đã hóa thân vào dáng hình xứ sở trường tồn cùng thời gian.
Tư tưởng đất nước của nhân dân được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ rệt trong đoạn trích này:
Ông khẳng định đất nước của nhân dân bởi chính nhân dân là người làm nên đất nước. Họ đã giữ gìn những truyền thống văn hóa của dân tộc để những giá trị ấy không bị mai một:
Bằng giọng điệu suy tư, ngôn từ mộc mạc và sự linh hoạt trong việc sử dụng các thành ngữ, các chất liệu văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được vẻ đẹp của hình tượng đất nước. Đó là vẻ đẹp giản dị, thân thuộc nhưng vô cùng thiêng liêng. Cách nhìn nhận này đã góp phần tạo nên sự đa dạng của hình tượng đất nước trong văn học Việt Nam.
Tiếp theo cảm nhận về bài thơ Đất Nước, gợi ý cho bạn 🌳 Sơ Đồ Tư Duy Tây Tiến 🌳 16 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay
Cảm Nhận 9 Câu Đầu Bài Thơ Đất Nước để thấy được tác giả miêu tả nguồn cội của đất nước được hiện lên rất đỗi bình dị và thân thương qua những câu chuyện ngày xưa mẹ kể, miếng trầu bà ăn.
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất nước.
Mở đầu đoạn trích, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất nước vô cùng thân thương. Và cội nguồn đó được lí giải vô cùng tinh tế qua 9 câu đầu của bài thơ:
Mở đầu đoạn thơ, tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu rồi, khi mà con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương. Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận bây giờ.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn. Làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành một phần kí ức tốt đẹp khiến ta không thể quên.
Những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo lí làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng được gửi gắm vào câu ca dao đó đã góp phần tạo nên Đất nước đa dạng về văn hóa như hiện nay.
Nhai trầu từ lâu đã trở thành một thói quen không thể thiếu của những người phụ nữ Việt Nam nhất là các bà, các mẹ. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất.
Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam :
Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liền với mái tóc dài, được búi gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng.
Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân:
Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước.
Ngôi nhà là mái ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn thành sự phát triển đất nước. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay – giã – dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. .
Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó…”
“Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ…
Cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình và điệp từ “Đất nước”, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn của đất nước.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với bản trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ. Đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này.
Đón đọc tuyển tập ☔ Phân Tích 9 Câu Đầu Đất Nước ☔ Dàn Ý, 10 Bài Cảm Nhận Hay
Bài thơ Đất nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ hay và xúc động về tình cảm của một người con Đất nước với Tổ quốc yêu thương của mình. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc giàu giá trị văn hóa, giá trị nhân văn sâu sắc mà tiêu biểu là 9 câu thơ đầu trong bài thơ.
Đất nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
Bốn từ “ngày xửa ngày xưa” sao quá đỗi quen thuộc với chúng ta. Nó xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích bà kể, trong những lời ru tha thiết của mẹ ru con trong giấc say nồng. Nó thể hiện sự kì diệu về sự sinh thành và phát triển của Đất nước, của những đặc trưng rất riêng của con người Đất nước.
Hình ảnh Đất nước vừa hiện lên vừa giản dị gần gũi, vừa thiêng liêng sâu lắng bởi nó gắn với thế giới tâm hồn con người, được nuôi dưỡng bởi việc truyền đời cho con cháu đời sau, những cái “ngày xưa” ấy là bao kỉ niệm cho những chiến tích lịch sử văn hóa đã qua. Đất nước được nói đến qua khía cạnh, bắt đầu với miếng trầu có nghĩa là Đất nước được hình thành trong lối sống tình nghĩa.
“Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”, thể hiện lối sống giản dị, chân chất của con người Đất nước. Lối sống nghĩa tình ấy trở thành truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta. Đất nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ những cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc
“Tóc mẹ thì bới sau đầu” hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu, hình ảnh thật gần gũi, thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ vất vả nhưng vẫn duyên dáng, đẹp dịu hiền, đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng.
Đất nước còn hiện lên trong sự gắn liền với một lối sống đẹp, cái cội nguồn của sự sống, đó chính là ân nghĩa vợ chồng. Con người Việt ta từ xưa đã luôn coi trọng đạo lý, coi gia đình và hôn nhân là điều thiêng liêng và đáng trân trọng. Cha mẹ sinh ra coi cái không phải nuôi con do trách nhiệm mà đó là nghĩa tình, đó là niềm hạnh phúc sum vầy của tình cảm gia đình, càng đông càng vui.
Cuộc sống mưu sinh vất vả nhưng sự thủy chung, sắt son “đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn” đã giúp cho người Việt ta vượt lên tất cả. Cuộc sống bấp bênh, nhiều khó khăn vất vả, chỉ có “gừng cay” và “muối mặn” chứ ít khi ngọt ngào nhưng cũng chính vì lẽ đó mà con người ta biết trân trọng hạnh phúc nhiều hơn.
Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Tình yêu được sinh ra và nuôi dưỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng quý. Đó là lối sống trọn nghĩa, trọn tình, thuỷ chung đã trở thành một truyền thống thiêng liêng được lưu truyền qua bao đời. Cũng chính từ cái tình cảm đáng quý ấy là một tấm gương, bài học đáng quý truyền đời cho các thế hệ sau về cách sống nhân nghĩa ân tình này.
Đất nước còn được gắn liền với những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc “cái kèo, cái cột” nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, làng xóm, quê hương, Đất nước. Đất nước hiện lên qua cuộc sống lao động sinh hoạt: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Sự hình thành và phát triển của Đất nước là một quá trình lâu dài, nhờ những giọt mồ hôi của công sức lao động vất vả, một nắng hai sương mà có được.
Con người lao động đã biết “xay, giã, giần, sàng” để tạo nên hạt gạo để xây dựng Đất nước no ấm. Những hình ảnh trên đều gần gũi, chân thành vô cùng. Cũng chính đi đi lên và trưởng thành trong gian khó mà nhân dân ta biết thương nhau, biết đến sự đoàn kết nhiều hơn, biết trân trọng những giá trị lao động và hun đúc ý chí con người quật cường và gan dạ.
Nguyễn Khoa Điềm có điểm nhìn rất gần gũi, thân thuộc bình dị để miêu tả về Đất nước. Đến với bài thơ ta càng thêm thấu hiểu về quê hương Đất nước với những truyền thống, nét văn hóa đáng trân trọng và ngợi ca. Đất nước trong chúng ta chính là những tình cảm thân thương và gần gũi nhất.
Tiếp tục với cảm nhận về bài thơ Đất Nước, đọc nhiều hơn ☀️ Cảm Nhận 9 Câu Đầu Đất Nước ☀️ 10 Bài Văn Hay Nhất
Thơ Nguyễn Khoa Điềm được đánh giá là luôn giàu chất suy tư, cảm súc dồn nén. Bài thơ “Đất nước” là một trong những tác phẩm thành công của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cho thấy tư tưởng đất nước của nhân dân và tình yêu thương sâu sắc và trách nhiệm của nhà thơ với đất nước.
Đặc biệt Từ Câu 10 Đến Câu 29 đã thể hiện thành công những cảm nhận chân thành, mới mẻ và gần gũi của nhà thơ khi định nghĩa hai từ thân thương “đất nước”:
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có cách định nghĩa thật mới mẻ, cụ thể về đất nước. Với ông đất nước là những gì bình dị, rất gần gũi và thân thuộc với mỗi con người:
Ông đã mượn lối đối đáp tâm tình thân thương giữa lứa đôi để mang đến một hình ảnh đất nước không trừu tượng mà cụ thể. Tác giả đã khéo léo tách “đất nước” thành hai thành tố “đất” và “nước” để định nghĩa. Với nhà thơ, đất nước là những nơi hiện hữu trong cuộc sống thường ngày của mỗi người, đó là “nơi anh đến trường”, đó là “nơi em tắm”.
Đất nước trong quan điểm của nhà thơ còn là nơi chờ đợi trong nhớ nhung của người con gái dành cho người thương của mình. Để rồi “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Trong ý thơ này, nhà thơ đã thật tinh tế khi sử dụng hình ảnh của những câu ca dao ngọt ngào, sâu lắng.
Bằng hình ảnh trong ca dao, nhà thơ đã ngầm định nghĩa đất nước cũng chính là nơi cất lên những câu ca dao hàng ngày trong mỗi miền quê yên bình. Đó là một ý thơ thật đẹp đẽ, giàu hình tượng. Bởi lẽ, ai lớn lên từ vành nôi mà không nghe những lời ru, những câu ca dao ngọt ngào của mẹ.
Nhà thơ tiếp tục say sưa với những định nghĩa về đất nước. Đất nước hiện lên trong những câu thơ tiếp theo là hình ảnh đất nước hùng vĩ, mênh mông có tự lâu đời:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”…Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Không chỉ mượn hình ảnh ca dao thân thuộc, ở ý thơ dưới nhà thơ lại tiếp tục sử dụng những câu dân ca Huế sâu lắng, ý nhị như “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “con cá ngư ông móng nước biển khơi” để nếu lên quan niệm về đất nước.
Hình ảnh “con chim phượng hoàng” với “núi bạc”, “con cá ngư ông” với “biển khơi” gợi lên một đất nước huy hoàng, hùng vĩ và giàu đẹp. Đất nước hùng vĩ ấy đã trải qua “thời gian” “không gian” dài và rộng lớn.
Đất nước không chỉ là nơi gần gũi thân thuộc, trải qua bao thăng trầm lịch sử mà còn là vùng đất linh thiêng gắn với truyền thuyết “con rồng cháu tiên”:
“Đất là nơi chim về….Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Nhà thơ nhấn mạnh dân tộc Việt Nam là nơi “đất lành chim đậu”. Nơi có rồng thiêng “thăng long”, có cội nguồn lâu đời. Gắn với truyền thuyết dân gian mà không một ai trên mảnh đất hình chữ S này không nhớ. Tất cả dân tộc Việt Nam đều là anh em một nhà. Dù có lên rừng hay xuống biển thì nguồn cội vẫn được đẻ ra từ trong “bọc trứng”.
Xuyên suốt đoạn thơ, nhà thơ tách hai từ “Đất nước” làm hai thành tố “đất” và “nước” và điệp lại nhiều lần cùng hình ảnh thơ bình dị,. Mang âm hưởng dân gian đã mang đến những định nghĩa rất riêng và sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
Từ trái tim chân thành và tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến những khái niệm rất mới mẻ, cụ thể. Nhưng cũng rất gần gũi, thân thuộc với mỗi con người Việt Nam. Đọc đoạn thơ, người đọc được trở lại với từng không gian gần gũi của miền quê, hòa mình và những câu ca dao, dân ca ngọt ngào.
Ngoài cảm nhận về bài thơ Đất Nước, khám phá thêm 💕 Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Đàn Bà Làng Chài 💕 12 Bài Hay
Đất nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta; vừa cao cả, trang trọng; vừa xiết bao gần gũi. Hình tượng Đất Nước đã khơi nguồn cho bao hồn thơ cất cánh. “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm cũng nằm trong dòng chảy dào dạt ấy và có phần đầy đủ hơn cả khi thống nhất được cội nguồn đất nước và tư tưởng đất nước của nhân dân.
Đặc biệt, trong đoạn thơ từ câu 30 đến câu 42, ta thấy hình tượng đất nước đã đi vào chiều sâu trong sự riêng tư đời người:
Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì “vẹn tròn, to lớn”. Đất nước mang tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và còn là “cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu xương” của ta. Đất nước được nhìn từ cái chung đến cái riêng, cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng về bề sâu, từ cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp tự nhiên, chặt chẽ và đượm lí, đượm tình.
Tiếp sau đó là tư tưởng đất nước của nhân dân. Một loạt những câu thơ tự do với biên giới thơ mở rộng. Nhịp thơ chậm lại, mang không khí tâm tình trò chuyện. Nghệ thuật liệt kê và cách điệp lại cấu trúc nhấn mạnh ý thơ và liền mạch.
Lời thơ, giọng thơ sôi nổi, thiết tha và tràn đầy nhiệt huyết, khẳng định những đóng góp của nhân dân trong việc làm ra đất nước. Đó là núi Vọng Phu – những năm tháng chờ đợi chung thủy sừng sững giữa trời.
Đó là núi bút non nghiêng xây đắp bởi lòng hiếu học của những tháng năm miệt mài đèn sách và hàng loạt các địa danh “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, với niềm tự hào vời vợi trong lời ca ngợi non sông gấm vóc, “non kỳ thủy tú”. Con người cùng bảo vật vô tri khác đã “hóa thân cho dáng hình xứ sở” và với tác giả đó là niềm yêu kính trước công lao to lớn của nhân dân, xây đắp “hình sông thế núi”.
Khẳng định đất nước là của nhân dân đồng thời là lời yêu cầu tình yêu đất nước, thức tỉnh lòng tự hào và tinh thần dân tộc trong mỗi người. “Em ơi em” là lời gọi ngọt ngào, tha thiết, trìu mến, đầy thủ thỉ tâm tình. Vậy là nói về những điều lớn lao mà không hề sáo rỗng.
Nhân dân là ai? Là những người “con gái, con trai” bằng tuổi chúng ta, và người ra trận, kẻ ở lại, có những anh hùng “cả anh và em đều nhớ” nhưng cũng có những anh hùng vô danh “Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã làm ra đất nước”. “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”, lời thơ giống như một nén hương tận tâm còn vương khói thắp lên cho nhân dân, dân tộc.
Trong suốt bốn nghìn năm đất nước, nhân dân ta truyền giữ hạt lúa, truyền từng ngọn lửa, truyền giọng nói, với những tên xã, tên làng, đắp đập be bờ chống giặc ngoại xâm. Các giá trị vật chất luôn đi kèm văn hóa tinh thần, cả kiến quốc và vệ quốc. Những câu thơ gợi nhắc tới: tiểu đội xe không kính, những cô gái mở đường, anh giải phóng quân:
Hoặc:
Tác giả đã chọn tư liệu văn hóa dân tộc trong ca dao, thể hiện cảm xúc, ý nghĩ. Hiện lên rõ mồn một là chân dung tinh thần của nhân dân. Tâm hồn dân tộc gửi vào trong dân gian gian nay trở thành chiều sâu văn hóa. Nhìn ở cả chiều dài, chiều rộng và chiều sâu đều thấy được vai trò của nhân dân vừa làm ra vừa bảo vệ. Cho nên “Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là bản nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong điệu hồn kháng chiến, là lời thúc giục tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.
Giới thiệu tuyển tập 💕 Phân Tích Người Đàn Bà Hàng Chài 💕 20 Mẫu Phân Tích Nhân Vật
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước:
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ… gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào:
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.
Với thể thơ tự do cùng những hình ảnh dân gian độc đáo, tác giả đã đưa ra nguồn gốc của Đất nước một cách khác biệt mà cũng rất chính xác. Tác phẩm đã góp phần to lớn vào việc làm phong phú văn chương nước nhà cũng như khẳng định đất nước này là của con người Việt Nam.
Cùng với cảm nhận về bài thơ Đất Nước, đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Đất Nước Đoạn 1 2 🔥 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Gửi tặng đến bạn đọc bài văn mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 2 để bạn thấy rõ hơn cách cảm nhận mới lạ mà cũng quá đỗi bình dị về hai tiếng Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Nếu như mở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi nguồn cho tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, để lý giải sự hình thành Đất Nước. Thì đến đoạn thơ thứ 2, đôi mắt thơ của Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian địa lý.
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục cho thấy cách sử dụng từ, câu linh hoạt sáng tạo của mình. Nhà thơ đã chiết tự hai từ Đất Nước để phân tích về linh hồn thẳm sâu bên trong nó. Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm. Nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó khăng khít với cuộc sống của con người.
Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, họa nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ. Nay Nguyễn Khoa Điềm gợi về đất nước còn là không gian tình tự, nơi gắn kết tình cảm. Nơi khơi nguồn và là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của người con gái.
Hai câu thơ tiếp, để thấy được Đất Nước không chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ. Mà còn đánh thức cả những miền kí ức văn hóa cộng đồng, nét đẹp dân gian truyền thống của cộng đồng.
Đất Nước là sự hun đúc, là sự kết thành giữa dòng chảy trôi bất tận của thời gian mênh mông. Nhưng thời gian ở đây không phải thời gian vô tri. Mà là thời gian của lịch sử của văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, nhắc về ký ức lịch sử văn hóa cộng đồng. Và đồng thời gợi về nét đẹp văn hóa văn học dân gian của dân tộc.
Nhìn Đất Nước trong cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, Đất Nước còn là sự kết nối những thế hệ đã qua và thế hệ kế tục
Để tạo nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất Nước. Chắc chắn là sự đắp bồi, tiếp nối của biết bao thế hệ cháu con đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất Nước sáng mãi trong tâm khảm mỗi người bởi sự hi sinh vĩ đại, lớn lao.
Bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa trao truyền bao thế hệ. Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân:
Trong anh và em, trong mỗi chúng ta, đều thấm nhuần điệu hồn của Đất Nước. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân với tất cả cộng đồng. Giữa cái nhỏ bé và cái to lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc và cái xa xôi lớn lao. Để từ đó, bắc cây cầu đến trái tim của người đọc, rằng: Đất nước ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta, và vì thế:
Viết về Đất Nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và trong mỗi thời kỳ lịch sử. Các nhà thơ, nhà văn lại đằm vào nó điệu hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Thế nhưng giọng thơ của ông không hề mang tính giáo điều mà chan chứa, đằm thắm những nghẹn ngào.
Đoạn thơ thứ hai đã thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Do đó, nó không chỉ tạo nên sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc. Mà còn tăng sức nặng bởi những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng.
Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Rừng Xà Nu 🌳 15 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Hay
Tiếp theo đây, chúng tôi chia sẻ thêm đến bạn đọc bài văn mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 3
Đất Nước được tạo nên bởi linh hồn, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén mà cũng đằm thắm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi: Đất Nước do ai làm nên?
Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cái nhìn rất mới mẻ, độc đáo của nhà thơ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của đất nước dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khao khát khám phá kiếm tìm.
Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp bát ngát, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng.
Song, đến Nguyễn Khoa Điềm thì nhà thơ không nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích. Đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm tinh thần thượng võ của dân tộc.
Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do ai làm nên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện cái nhìn mới mẻ mà còn thể hiện cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông không phải là sự tạo tác của thiên nhiên mà là sự hóa thân của tâm hồn con người.
Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi cá nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra cảnh ly tán. Sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng.
Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ đã trở thành biểu tượng sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu đôi lứa. Những quả đồi thấp bao quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục.
Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền thế giới ấy nhờ cái nhìn mới mẻ độc đáo của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông không còn là cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử không chỉ đơn thuần mang tính chất thiêng liêng.
Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời gian lịch sử, vừa gợi được không gian mênh mông. Dường như để từ đó nhà thơ muốn khẳng định, lặng lẽ bền bỉ cùng thời gian, trung hậu kiên cường trong không gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân.
Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế hệ.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Sơ Đồ Tư Duy Rừng Xà Nu 🌟 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay
Điều đặc biệt cuối cùng của bài viết, chúng tôi xin dành tặng thêm cho bạn đọc bài Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước Đoạn 4 của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.
Trường ca “Mặt đường khát vọng” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên. Nhằm mục đích thứ tỉnh thanh niên đô thị vùng tạm chiến miền Nam về sứ mệnh với cuộc chiến chống Mỹ. Đoạn trích “Đất nước” nằm trong chương năm của đoạn Trường ca và một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm viết về đất nước.
Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua đoạn trích ‘Đất nước” ( Trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm. Và đây là mộ trong những đoạn trích tiêu biểu:
Đoạn thơ đã thể hiện được cái “tâm” của nhà thơ đối với đất nước. Nhà thơ mong muốn thế hệ hôm nay đừng bao giờ quên đi nguồn cội của mình. Đừng đánh mất quá khứ, bởi quá khứ đã làm nên hiện tại, không có quá khứ thì làm sao có hiện tại. Dân tộc ta có lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Đó là một quá khứ bi thương nhưng rất hào hùng của dân tộc. Chính cái quá khứ ấy đã hun đúc làm nên bề dày truyền thống của dân tộc, làm cho dân tộc vẫn tồn tại đến ngày hôm nay. Chính vì vậy mà trong đoạn thơ này, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc nhở, khuyên nhủ thế hệ hôm nay hãy nhìn rất xa vào quá khứ của dân tộc:
Nhìn về quá khứ rất xa để thấy được năm tháng nào cũng người người lớp lớp bất phân già trẻ, gái trai cũng luôn vừa cần cù làm lụng để kiếm miếng ăn vừa đánh giặc cứu nước, bất chấp hy sinh, gian khổ, bất chấp trước bạo lực của kẻ thù:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Ông cha ta ngày trước đã luôn đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh những tình cảm riêng tư của mình như tình yêu, tình chồng vợ để đi đánh giặc cứu nước với một thái độ dứt khoát mà không hề so đo, tính toán, phân bì, hơn thiệt.
Đúng là nhiều người đàn bà anh hùng cả anh và em đều nhớ. Chúng ta làm sao quên được những người đàn bà đã đi vào lịch sử của dân tộc trong quá khứ như bà Trưng, bà Triệu…
Và trong cái chiều dài của lịch sử dân tộc ấy, có biết bao lớp người con gái, con trai giống như lớp tuổi chúng ta bây giờ. Họ đã sống và chết một cách giản dị và bình tâm không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng mà nhà thơ đã khẳng định vai trò của họ đối với đất nước thật vô cùng to lớn.
Họ chính là những con người bình thường, giản dị, nhưng có một tình cảm sâu đậm đối với đất nước. Khi đất nước lâm nguy, bị kẻ thù xâm chiếm, họ tạm gác lại những tình cảm riêng tư, lên đường đi chiến đấu, đem máu xương của mình hiến dâng cho Tổ quốc. Chính họ là những con người “làm ra Đất Nước”.
Tóm lại, trong đoạn thơ trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã bộc lộ tấm lòng yêu nước thiết tha. Lòng tự hào dân tộc cao độ của mình và nhà thơ muốn truyền lại cảm xúc trào dâng ấy đến với thế hệ hôm nay. Với mong ước những thế hệ hôm nay đừng bao giờ quên đi truyền thống tốt đẹp ấy của dân tộc. Phải biết kế thừa, gìn giữ và phát huy.
Tiếp theo tham khảo 🌹 Cảm Nhận Về Nhân Vật Tnú 🌹 10 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Văn Mẫu Lớp 9: Tổng Hợp Những Mở Bài Truyện Ngắn Lặng Lẽ Sa Pa (53 Mẫu) Mở Bài Lặng Lẽ Sa Pa Của Nguyễn Thành Long
Tổng hợp mở bài Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long
Mở bài chuyên sâu Lặng lẽ Sa Pa
Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa
Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa
Mở bài cảm nhận nhân vật ông họa sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa
Mở bài phân tích nhân vật cô kĩ sư
Mở bài cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa
Mở bài phân tích vẻ đẹp thiên nhiên và con người trong Lặng lẽ Sa Pa
Mở bài cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa
Mở bài chuyên sâu Lặng lẽ Sa Pa Mở bài 1Có bao giờ bạn đọc một câu chuyện mà khi gấp trang sách lại thấy lòng mình vấn vương, thương nhớ một nhân vật nào đó? Có bao giờ bạn thưởng thức một tác phẩm mà khi nghĩ về nó bạn lại nôn nao, khi nhắc đến nó bạn lại mong muốn được kể, được khát khao trở thành ai đó trong câu chuyện? Trong cảm nhận của bản thân, tôi đã có những cảm xúc ấy khi đọc truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long. Một câu chuyện kể về chàng thanh niên trẻ tuổi muốn cống hiến cuộc đời mình, thanh xuân mình cho đất nước, nhân dân.
Mở bài 2Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, nhà thơ Thanh Hải đã thể hiện khát khao cháy bỏng được dâng hiến, hòa nhập mùa xuân nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của đất nước. Cũng viết về một “nốt trầm” lặng lẽ nhưng cao đẹp giữa cuộc sống, nhà văn Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa đã hướng ngòi bút đến những con người vô danh vẫn âm thầm đóng góp sức lực cho tổ quốc thân yêu. “Lặng lẽ Sa Pa”- một bản nhạc dịu dàng ngợi cả những người say mê và miệt mài với lý tưởng đẹp đẽ vì cộng đồng, sống một cuộc đời ý nghĩa và xứng đáng nhất. Truyện ngắn được viết vào năm 1970, sau cuộc hành trình lên Lào Cai của tác giả, có lẽ vì cảm mến và trân trọng thiên nhiên và con người chốn này mà tác giả đã viết nên một tác phẩm hấp dẫn và đặc sắc như thế.
Mở bài 3Giá như không có chuyến ô tô khách, có lẽ cũng chẳng mấy ai được đặt chân đến Sa Pa, để cảm nhận được vẻ đẹp thanh tú, cái “lặng lẽ” của một vùng núi non trùng điệp mù sương và mộng mơ cao nhất nước Việt này/ trong bản đồ địa hình, Sa Pa nằm bên hữu ngạn sông Hồng, còn con đường sắt dọc theo sông lại nằm ở phía tả ngạn. Cho nên đã thành thông lệ, ai đến Sa Pa hãy đi đường sắt lên chót Lào Cai rồi từ Lào Cai lại đi ô tô khách leo dốc núi 80km nữa mới đến Sa Pa. Chuyến xe khách Lào Cai – Sa Pa vô tình đã trở thành cầu nối, trở thành người dẫn chuyện. Trên chuyến xe khách có ba nhân vật, ngoài người lái xe già trước cách mạng tháng Tám 1945 còn có ông họa sĩ già vui tính và cô kĩ sư nông nghiệp trẻ lần đầu đi Tây Bắc. Họ quen nhau trên một chuyến xe, dù sao cũng là một chuyện bình thường. Tuy nhiên tác giả Nguyễn Thành Long đã miêu tả họ thành ba nhân vật có tâm hồn trong sáng, dễ mến.
Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 1Vẻ đẹp nghệ thuật trong các sáng tác của Nguyễn Thành Long không nằm ở những phát hiện sắc sảo, táo bạo xung đột mạnh mẽ mà nghiêng về tạo dựng chất thơ nhẹ nhàng trong trẻo lặng thầm, kín đáo nhưng vẫn có sức ngân vang sâu rộng lâu bền. Lặng lẽ Sa Pa tiêu biểu cho phong cách đó của ông. Tác giả đã giới thiệu với chúng ta một vùng đất lặng thầm nhưng ở đó vẫn có những con người đang ngày đêm làm việc cống hiến quên mình cho quê hương đất nước.
Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 2Nguyễn Thành Long là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Truyện ngắn của ông thực sự là sự chắt lọc hiện thực của cuộc sống sôi động đang diễn ra hằng ngày trên đất nước ta, nhưng thường có những ẩn ý sâu sắc. Sau một chuyến đi nghỉ hè ở Sa Pa ông viết tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”. Đây là một truyện ngắn hay có phong cách nhẹ nhàng ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của những người lao động mới đang ngày đêm âm thầm cống hiến hết sức mình cho đất nước.
Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 3Lặng lẽ Sa Pa một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nguyễn Thành Long. Tác phẩm được sáng tác trong một lần tác giả đi công tác tại Lào Cai. Tác phẩm là lời ca ngợi cuộc sống và con người lao động bình dị, lặng lẽ cống hiến tuổi xuân cho đất nước. Bằng một giọng văn tình cảm, nhẹ nhàng Nguyễn Thành Long đã tạo nên một thiên truyện thấm đẫm chất trữ tình từ khung cảnh thiên nhiên đến con người.
Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 4“Lặng lẽ Sa Pa” là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thành Long sáng tác năm 1970. Truyện ra đời trong hoàn cảnh miền Bắc đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Ra đời trong giai đoạn ấy, truyện mang dấu ấn của một thời điểm lịch sử mà mọi người dân đều có ý thức sống cho cái chung và dường như quên đi chính bản thân mình. Người thanh niên làm khí tượng trong truyện là một điển hình cho thế hệ thanh niên chỉ biết xả thân mình cho đất nước. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa”, chúng ta chợt thấy mình như lắng lại trong chiều sâu xúc cảm.
Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 5Trong văn học Việt Nam, hiện đại có những cây bút văn xuôi chỉ chuyên về truyện ngắn và kí. Nguyễn Thành Long (1925- 1991) là một trong số đó. Bắt đầu viết văn trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở liên khu V, Nguyễn Thành Long được khẳng định như một cây bút truyện ngắn và kí đáng chú ý trong những năm 60-70 với cả gần chục tập sách đã in. Ông là một cây bút cần mẫn và nghiêm túc trong lao động nghệ thuật, lại rất chú trọng thâm nhập thực tế đời sống. Nhiều sáng tác của Nguyễn Thành Long là kết quả trực tiếp của những chuyến “thâm nhập thực tế” như thế, nhưng truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa lại là một trường hợp đặc biệt.
Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 6Nguyễn Thành Long (1925 – 1991) quê ở Quảng Nam, là cây bút truyện ngắn xuất sắc, nổi tiếng với các tác phẩm như: Giữa trong xanh (1972), Lý Sơn mùa tỏi (1980)… Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa rút trong tập Giữa trong xanh. Truyện ca ngợi những con người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng vô cùng sôi nổi, hết lòng vì Tổ quốc, có trái tim nhân hậu rất đẹp.
Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 7 Mở bài phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 8Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Ông cũng có khá nhiều tác phẩm nhưng tiêu biểu trong đó là tác phẩm Lặng Lẽ Sa Pa. Truyện ngắn này là kết quả một chuyến đi công tác ở Lào Cai năm 1970. Qua câu chuyện nhà văn muốn ca ngợi những phẩm chất của những thế hệ thanh niên cống hiến hết mình cả tuổi trẻ, tình yêu cho Tổ Quốc trong thời kì đổi mới đi lên xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc.
Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 1Nhân vật ông họa sĩ là nhân vật chủ yếu để qua cái nhìn của ông, tác giả bộc lộ suy nghĩ, nhận xét, đánh giá về cuộc đời, con người đặc biệt là nhìn nhận về anh thanh niên. Là người khát khao cống hiến, khát khao sáng tác: Luôn tìm kiếm vẻ đẹp trong cuộc sống để đưa vào nghệ thuật “Họa sĩ đã bắt gặp một điều mà thật ra ông vẫn ao ước được biết. Ôi, một nét thôi cũng đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đã là giá trị một chuyến đi dài”.
Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 2Trong xuyên suốt truyện Lặng lẽ Sa Pa tác giả đã nhiều lần sử dụng ông họa sĩ để nhập vai quan sát và miêu tả anh thanh niên rõ nét và sinh động hơn. Đây là nhân vật phụ nhưng đóng góp vào thành công của truyện.
Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 3 Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 4Có người đã nhận xét rằng Lặng lẽ Sa Pa là nơi hội tụ của những tấm lòng. Câu chuyện giản dị mà sâu sắc ấy kể về những con người có tâm hồn trong sáng và trái tim ấm áp. Họ gặp nhau tình cờ và quyến luyến nhau bởi cái tình đằm thắm trong mỗi người. Trong cuộc hội ngộ ấy, ông hoạ sĩ là nhân vật để lại trong lòng ta những ấn tượng sâu đậm, bởi tính cách thâm trầm, sâu sắc, bởi những triết lí sâu xa về nghệ thuật. Ông chính là sợi dây liên kết các nhân vật trong câu chuyện.
Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 5Lặng lẽ Sa Pa là truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Thành Long. Trong tác phẩm nhà văn không chỉ xây dựng thành công nhân vật anh thanh niên mà còn xây dựng thành công nhân vật ông họa sĩ già. Nhân vật ấy không những có vai trò lăng kính phản chiếu vẻ đẹp của anh thanh niên mà ông họa sĩ cũng hiện lên với những nét đẹp phẩm chất vô cùng đáng quý.
Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 6Nguyễn Thành Long là nhà văn thành công với thể loại truyện ngắn và kí. Đề tài viết về người lao động mới. Đặc biệt Lặng lẽ Sa Pa được ông sáng tác vào năm 1970 thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một truyện ngắn hay và đặc sắc. Bằng lời văn đậm chất thơ người đọc vô cùng ấn tượng với nhân vật ông họa sĩ có tình yêu nghề yêu thiên nhiên yêu con người và có những suy ngẫm về công việc.
Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 7 Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 8 Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 9Nguyễn Thành Long là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn và kí. Các tác phẩm của ông thường có văn phong nhẹ nhàng, giàu chất thơ và đầy ý nghĩa. “Lặng lẽ Sa Pa” là tác phẩm tiêu biểu cho văn phong của Nguyễn Thành Luân, tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế của ông năm 1970, tác phẩm đã khắc họa hình ảnh con người Việt Nam trong giai đoạn thế hệ vàng với những nhân vật tiêu biểu. Bên cạnh nhân vật chính anh thanh niên, ông họa sĩ cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc.
Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 10Dù không phải là nhân vật chính nhưng nhân vật ông hoạ sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa có vai trò rất quan trọng trong truyện: người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và những ý nghĩ của ông hoạ sĩ để trần thuật, để quan sát và miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm những suy nghĩ về con người lao động, về cuộc sống mới, về vai trò của nghệ thuật và trách nhị nhị của mỗi con người đối với đất nước.
Mở bài phân tích nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 11Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí. Truyện của ông có văn phong nhẹ nhàng, tình cảm, giàu chất thơ, ánh lên vẻ đẹp của con người và mang ý nghĩa sâu sắc. “Lặng lẽ Sa Pa” là tác phẩm tiêu biểu của ông. Bên cạnh làm nổi bật nhân vật chính anh thanh niên, truyện cũng khắc họa thành công nhân vật ông họa sĩ với những suy nghĩ về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật.
Mở bài cảm nhận nhân vật ông họa sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa Mở bài cảm nhận nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 1Lặng lẽ Sa Pa là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Thành long, viết về những con người cống hiến thầm lặng cho đất nước, quê hương. Ta chú ý đến nhân vật chính là anh thanh niên, cũng không thể bỏ qua những nhân vật phụ đầy ấn tượng, đó là bác lái xe, cô kỹ sư và đặc biệt là ông họa sĩ già.
Mở bài cảm nhận nhân vật ông họa sĩ – Mẫu 2“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm, trong đó tâm điểm là con người” (Nguyễn Minh Châu). Tác phẩm văn học nghệ thuật dù viết về điều gì thì cũng hướng đến con người, cũng nhằm phát hiện, đề cao, trân trọng những vẻ đẹp bên trong con người. Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long, ta bắt gặp rất nhiều những vẻ đẹp bên trong con người và ấn tượng là nhân vật ông họa sĩ.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 1Lặng lẽ Sa Pa là tác phẩm ra đời từ kết quả của chuyến đi của tác giả tại Lào Cai năm 1970, truyện ngắn cho người đọc thấy cái nhìn rất khác về Sa Pa nơi những con người lao động vẫn âm thầm, miệt mài cống hiến cho đất nước phát triển, trong đó anh thanh niên là nhân vật như thế.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 2Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút văn xuôi nổi bật trong giai đoạn những năm 60 – 70 chuyên viết về truyện ngắn và bút kí. “Lặng lẽ Sa Pa” là một truyện ngắn được sáng tác trong chuyến công tác tại Lào Cai giữa mùa hè 1970. Trong tác phẩm ấy, hình ảnh nhân vật anh thanh niên là điểm sáng trong câu chuyện đại diện cho những phẩm chất và tâm hồn tốt đẹp của con người mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 3Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí. Nét đặc sắc trong truyện ngắn của ông là luôn tạo hình tượng đẹp, ngôn ngữ trong trẻo, nhẹ nhàng, sáng tác của nhà thơ có nhiều đặc sắc. Nổi bật sáng tác của ông có thể nói đến là “Lặng lẽ Sa Pa”. Truyện được viết năm 1970, với tên truyện ta thấy Sa Pa là một nơi yên lặng để có thể nghỉ ngơi nhưng cạnh vẻ bề ngoài đó chính là sự sôi nổi của tuổi trẻ, chính là anh thanh niên.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 4Nguyễn Thành Long (1925 – 1991) là một trong tác giả xuất sắc chuyên viết truyện ngắn với những con người ở hậu phương luôn âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình cho đất nước, tổ quốc. Và một trong những nhân vật tiêu biểu nhất phải kể đến nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” sáng tác năm 1970. Đồng thời ở anh cũng bộc lộ lên những phẩm chất, triết lý tươi đẹp đáng trân quý và lớn lao về cuộc sống và công việc ở thời đại mới.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 5Nghệ thuật tập trung tiêu biểu cái đẹp. Nếu cái đẹp là một cái gì gắn liền với cuộc sống, bắt nguồn từ lao động, tiêu biểu cho cái đẹp cuộc sống phải được coi là đối tượng miêu tả chủ yếu của nghệ thuật. Có lẽ xuất phát từ quan điểm ấy, Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của mình đã tập trung xây dựng các hình tượng nhân vật đẹp cả trong tâm hồn và tính cách. Trong số các nhân vật ấy, anh thanh niên làm công tác khí tượng ở Sa Pa gây một cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 6Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Thành Long đã để tiếng lòng của mình cất lên, để linh hồn tác phẩm bay lên qua hình tượng nhân vật anh thanh niên.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 7Trong mỗi tác phẩm văn học, nhân vật chính trở thành linh hồn thể hiện trọn vẹn nội dung tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm vào những đứa con tinh thần của mình. Với trường hợp anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long cũng vậy. Anh là một người sống lạc quan, yêu đời, có tình có nghĩa với mọi người, đầy trách nhiệm với công việc và giàu lí tưởng sống. Xây dựng một nhân vật chính cho tác phẩm của mình như thế, Nguyễn Thành Long muốn thể hiện một tư tưởng giàu chất nhân văn về con người và cuộc đời.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 8Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết về truyện ngắn và ký. Nét đặc sắc trong truyện ngắn của ông là luôn tạo được hình tượng đẹp, ngôn ngữ giàu chất thơ, trong trẻo, nhẹ nhàng. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế Lào Cai của nhà văn, được in trong tập Giữa trong xanh (1972). Đây là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Thành Long. Qua câu chuyện về những nhân vật không tên, tác giả muốn giới thiệu với người đọc về một vùng đất lặng lẽ mà thơ mộng, ở đó có những con người được lao động thầm lặng, say mê hiến dâng tuổi trẻ và tình yêu của mình cho quê hương, đất nước.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 9Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn được rút trong tập “Giữa trong xanh” của Nguyễn Thành Long. Truyện ca ngợi những con người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng vô cùng sôi nổi hết lòng vì tổ quốc, có trái tim nhân hậu cao đẹp. Bằng cảm hứng hiện thực và trữ tình nhà văn đưa ta đến với Sa Pa – thành phố trong sương của miền Tây Bắc đẹp như một huyền thoại từ cảnh sắc đến những con người rất đáng yêu. Anh thanh niên làm khí tượng thủy văn để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 10Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Các tác phẩm của ông đều toát lên vẻ trong trẻo nhẹ nhàng giàu chất thơ thể hiện cách cảm nhận đầy tinh tế về cuộc sống. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông đó chính là truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” trong đó để lại ấn tượng sâu sắc nhất với người đọc là nhân vật anh thanh niên.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 11Nguyễn Trung Thành là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp với nhiều tác phẩm độc đáo, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Ra đời trong chuyến đi thực tế lên Lào Cai vào mùa hè năm 1970, truyện đã khắc họa thành công hình tượng những người lao động bình dị với những vẻ đẹp đáng quý và tiêu biểu nhất là nhân vật anh thanh niên, Đồng thời, thông qua nhân vật anh thanh niên giúp chúng ta hiểu thêm về ý nghĩa, nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 12Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa “của Nguyễn Thành Long lòng ta cứ xao xuyến vấn vương trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Dù được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục. Trong đó anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ.
Mở bài phân tích nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 13Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và bút kí, sáng tác của ông hầu hết chỉ viết về vẻ đẹp bình dị của con người và thiên nhiên, đất nước. Truyện ngắn “lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của chuyến đi Lào Cai vào mùa hè 1970 của tác giả, trích từ tuyển tập “giữa trong xanh” in năm 1972.
Mở bài phân tích nhân vật cô kĩ sư Mở bài phân tích nhân vật cô kĩ sư – Mẫu 1“Lặng lẽ Sa Pa” là kết tinh giá trị nhất sau chuyến đi thực tế lên miền Tây Bắc của nhà văn Nguyễn Thành Long. Trong bức tranh về Sa Pa lặng lẽ của Nguyễn Thành Long, ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa thơ mộng, yên ả mà còn xúc động trước những con người đã cống hiến hết mình cho lao động sản xuất vì mục tiêu chung. Ngoài những con người lao động hăng say, miệt mài, cống hiến lặng lẽ trên Sa Pa mà tiêu biểu là anh thanh niên, tác giả còn hướng người đọc đến những con người trẻ với những hoài bão lớn lao, hăng hái như cô kĩ sư nông nghiệp trẻ.
Mở bài phân tích nhân vật cô kĩ sư – Mẫu 2“Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Thành Long. Đến đậy, ông tận mắt nhìn thấy cuộc sống và lao động thầm lặng của những con người ngày đêm cống hiến sức mình cho đất nước. Bên cạnh ông họa sĩ, cô kỹ sư trẻ mang trong mình khát vọng đẹp cũng tìm thấy được lý tưởng từ hiện thực cuộc sống ấy.
Mở bài cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa Mở bài cảm nhận Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 1Nguyễn Thành Long là một trong số những nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam nói chung và văn xuôi hiện đại nói riêng. Bằng lối viết nhẹ nhàng, giàu tình cảm cùng ngôn ngữ trong sáng, giàu chất thơ và những hình tượng nhân vật độc đáo, những sáng tác của Nguyễn Thành Long về cuộc đấu tranh chống Mĩ cứu nước của dân tộc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, sáng tác năm 1970 là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông.
Mở bài cảm nhận Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 2Nguyễn Thành Long là một cây bút truyện ngắn nhưng vẻ đẹp nghệ thuật không nằm ở những phát hiện sắc sảo – táo bạo xung đột mạnh mẽ mà nghiêng về tạo dựng chất thơ nhẹ nhàng trong trẻo lặng thầm, kín đáo nhưng vẫn có sức ngân vang sâu rộng lâu bền. Lặng lẽ Sa Pa tiêu biểu cho phong cách dó của Nguyễn Thành Long. Truyện ra đời sau một chuyến đi thực tế kiểm nghiệm. Nguyễn Thành Long đã giới thiệu với chúng ta một vùng đất lặng thầm nhưng ở đó vẫn có những con người đang ngày đêm làm việc cống hiến quên mình cho quê hương đất nước.
Advertisement
Mở bài cảm nhận Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 3
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một truyện ngắn hay. Với cốt truyện đơn giản xoay quanh một tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sapa, đã để lại trong lòng người đọc một niềm sung sướng, thú vị.
Mở bài cảm nhận Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 4Thế nào là hạnh phúc? Làm thế nào để diễn tả một cách chân thực và giản dị cảm nhận về hạnh phúc? Làm thế nào để lột hiện được chân dung một con người đang hạnh phúc? Và nữa, nếu nhà văn đã chỉ ra một cách đúng đắn hạnh phúc là gì và một con người đang hạnh phúc là như thế nào thì điều gì sẽ là mấu chốt kêu gọi sự đồng cảm của biết bao người đọc?
Mở bài cảm nhận Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 5Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và bút ký. Các tác phẩm của ông luôn mang một hình tượng đẹp với ngôn từ trong sáng, giọng văn gần gũi, trong trẻo và nhẹ nhàng. Ông để lại nhiều tác phẩm văn xuôi như Giữa trong xanh (1972), Ta và chúng nó (1950), Bát cơm cụ Hồ (1952), … nhưng nổi tiếng nhất phải kể đến tác phẩm Lặng lẽ Sa pa (1970).
Mở bài cảm nhận Lặng lẽ Sa Pa – Mẫu 6Nguyễn Thành Long một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm của ông thường được bắt nguồn từ những con người bình dị, những sự kiện đời thường, mộc mạc của cuộc sống nên mỗi lời văn đều nhẹ nhàng, trong trẻo mà thấm đượm chất trữ tình. Lặng lẽ Sa Pa được coi là kết tinh tiêu biểu nhất cho tài năng và phong cách sáng tác của Nguyễn Thành Long. Truyện ngắn đã dựng lên bức tranh tuyệt đẹp về những con người lao động lặng lẽ và thiên nhiên Sa Pa đẹp đẽ mà đầy chất thơ.
Mở bài phân tích vẻ đẹp thiên nhiên và con người trong Lặng lẽ Sa Pa Mở bài phân tích vẻ đẹp thiên nhiên và con người – Mẫu 1Tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long không chỉ khắc hoạ vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên Sa Pa mà còn nêu lên vẻ đẹp của những con người ở chốn Sa Pa lặng lẽ đó. Nguyễn Thành Long là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và bút kí. Các tác phẩm của ông là sự chắt lọc hiện thực của cuộc sống. Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn đặc sắc, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Truyện được viết sau chuyến đi thực tế ở Sa Pa, một vùng núi đẹp nổi tiếng. Tác phẩm không chỉ khắc hoạ vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên Sa Pa mà còn nêu lên vẻ đẹp của những con người ở chốn Sa Pa lặng lẽ đó.
Mở bài phân tích vẻ đẹp thiên nhiên và con người – Mẫu 2Xanh ngát trong nền văn học Việt Nam thế kỷ 20, nổi bậc lên cây bút Nguyễn Thành Long. Không khai thác hiện thực cuộc sống khốc liệt, sắc cạnh và sôi sục như các nhà văn khác, Nguyễn Thành Long đã lựa chọn cách biểu đạt nhẹ nhàng, sâu lắng như chính tâm hồn ông, bởi ông yêu văn, yêu cả cuộc sống. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật ấy. Vẻ đẹp Lặng lẽ Sa Pa trầm lắng nhưng rạo rực và tinh tế vô cùng.
Mở bài phân tích vẻ đẹp thiên nhiên và con người – Mẫu 3Nguyễn Thành Long không có thế mạnh trong miêu tả cảnh vật, nhưng đôi khi, ông cũng để lại những trang viết về thiên nhiên hết sức độc đáo. Trong Lặng lẽ Sa Pa, vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên dưới ngòi bút của ông vừa thơ mộng trữ tình, vừa cuồn cuộn sắc màu hoang dã gây hứng thú vô cùng.
Mở bài cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa Mở bài cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 1Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí. Tác phẩm của ông thường có giọng điệu nhẹ nhàng, tình cảm,thường pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình, làm ánh lên vẻ đẹp của con người nên có khả năng thanh lọc làm trong sáng tâm hồn, khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” ra đời là kết quả chuyến đi Lào Cai trong mùa hè 1970 của tác giả, lúc miền Bắc đang thời kỳ xây dựng miền Bắc, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mĩ đến thắng lợi. Qua hình ảnh anh thanh niên, tác phẩm ca ngợi những con người dùng cảm, tuyệt đẹp đang cống hiến một cách thầm lặng cho tổ quốc.
Mở bài cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 2Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều mang một số phận riêng. Có tác phẩm vừa cất tiếng chào đời đã chết yểu đáng thương. Có tác phẩm gây dư luận xôn xao một thời rồi bị độc giả quên lãng với thời gian. Nhưng cũng có những bài thơ, quyển truyện có một sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc, có một sức hút kì lạ. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một truyện ngắn đặc sắc, để lại trong lòng mỗi người đọc chúng ta nhiều rung cảm đẹp đẽ.
Mở bài cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 3Lặng Lẽ Sa Pa là một truyện ngắn vô cùng nhẹ nhàng, giàu chất thơ và tác giả đã xây dựng được hình tượng nhân vật đẹp. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được viết vào năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của tác giả Nguyễn Thành Long, có thể coi đây là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của ông. Truyện ngắn với những nhân vật không tên đặc biệt tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên trẻ cán bộ khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Tác giả muốn giới thiệu với bạn đọc một nhân vật điển hình trong công cuộc lao động và xây dựng đất nước ở miền Bắc trên vùng cao khuất nẻo này.
Mở bài cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 4Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa” là tác phẩm được sáng tác khi nhà văn Nguyễn Thành Long đi thực tế tại vùng cao, sự thân thiện của những con người nơi đây làm cho tác giả viết tác phẩm đầy tính nhân văn, thể hiện tinh thần sống lạc quan yêu đời của những con người yêu lao động.
Mở bài cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên – Mẫu 5Nguyễn Thành Long là một nhà văn nổi tiếng, với những tác phẩm đặc sắc để lại dấu ấn. Kết quả của chuyến đi thực tế Lào Cai mùa hè năm 1970 đã cho mọi người thấy được một Lặng lẽ Sa Pa. Trong đó, nổi bật lên là nhân vật anh thanh niên, sống một mình trên núi cao làm công việc đo khí tượng. Anh luôn thèm khát được gặp người để thỏa lòng mong ước.
Văn Mẫu Lớp 7: Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Bánh Trôi Nước (Dàn Ý + 8 Mẫu) Bánh Trôi Nước Của Hồ Xuân Hương
Cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.
Dàn ý cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nướcI. Mở bài
Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ nổi tiếng của nước ta cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, được ca ngợi là “Bà chúa thơ Nôm”. Bài thơ “Bánh trôi nước” là một trong những tác phẩm chữ Nôm đặc sắc. Nhà thơ đã mượn hình ảnh bánh trôi để kín đáo phản ánh thân phận phụ thuộc và phẩm giá cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
II. Thân bài
1. Cảm nhận về hình ảnh bánh trôi nước và quá trình làm bánh
Hình dáng bên ngoài: vừa trắng, vừa tròn
Nguyên liệu: vỏ ngoài làm bằng bột nếp, nhân bằng đường đỏ
Quá trình luộc : luộc trong nước sôi, chìm nổi vài lần là chín.
2. Cảm nhận vẻ đẹp, thân phận của người phụ nữ Việt Nam.
Tác giả mượn đặc điểm của bánh trôi để miêu tả vẻ đẹp, số phận của người phụ nữ Việt Nam:
Vẻ đẹp hình thể: đẹp, trong trắng, dịu dàng, thuỳ mị: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”.
Số phận bất hạnh: long đong, chìm nổi, sống phụ thuộc, không có quyền quyết định cuộc đời mình: “Bảy nổi ba chìm với nước non”.
Vẻ đẹp tâm hồn: sự trong trắng, thuỷ chung, son sắt: “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
III. Kết bài
Cảm nhận chung về bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.
Cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước – Mẫu 1“Bánh trôi nước” là một trong những bài thơ nổi của Hồ Xuân Hương. Bài thơ vừa cho thấy vẻ đẹp và số phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời cho thấy tấm lòng nhân văn cao cả của bà: yêu thương trân trọng người phụ nữ.
Bài thơ có hai lớp nghĩa chính, lớp nghĩa thứ nhất là lớp nghĩa tả thực, miêu tả bánh trôi nước từ hình dáng cho đến cách làm. Bánh trôi có hình tròn, màu trắng. Làm bánh trôi bằng cách viên thành hình tròn nhỏ vừa ăn, bên trong bánh trôi là một viên đường nhỏ, thường được làm bằng đường phên hoặc đường phèn. Khi luộc thấy bánh lên tức là bánh đã chín. Bài thơ đã mô tả một cách chân thực, chính xác về món ăn dân dã, quen thuộc của nhân dân ta.
Nhưng ẩn đằng sau lớp nghĩa tả thực đó lại là lớp nghĩa ẩn dụ hết sức tinh tế, sâu sắc, hình ảnh bánh trôi cũng chính là hình ảnh biểu tượng cho người phụ nữ. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng mô típ quen thuộc trong văn học dân gian “Thân em”. Hai chữ thân em nói lên nỗi đau thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Tiếng thơ của Hồ Xuân Hương có sự đồng điệu, gặp gỡ với những tiếng hát than thân trong ca dao:
Hay như:
Việc Hồ Xuân Hương sử dụng các ngữ liệu dân gian vừa khiến cho thơ bà gần gũi, mềm mại với đời sống, mặt khác làm cho tiếng thơ trở nên da diết, thấm đầy chất nhân bản, trở thành tiếng thơ của bao người.
Ngay từ câu thơ đầu tiên của bài, bà đã khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ: trắng, tròn, họ mang vẻ đẹp phúc hậu, hiền từ. Lời khẳng định này cũng cho thấy bà rất có ý thức về bản ngã của mình nói riêng và của những người phụ nữ nói chung.
Mang vẻ đẹp về hình thức, ý thức được vẻ đẹp đó, nhưng số phận của họ lại hết truân chuyên, vất vả:
Thân phận của họ cũng chẳng khác gì những tấm lụa đào, hạt mưa sa,… người con gái trong xã hội cũ không được tự quyết định số phận, hạnh phúc của mình. Khi ở nhà họ phụ thuộc vào cha mẹ, cha mẹ đặt đâu họ phải ngồi ở đó, đến lúc đã yên bề gia thất số phận của họ lại tiếp tục bị phụ thuộc vào người chồng. Những người phụ nữ này thật nhỏ bé và đáng thương, cuộc đời chìm nổi với biết bao sóng gió, hạnh phúc của bản thân không được tự mình quyết định.
Mặc dù cuộc sống không được suôn sẻ, luôn gặp phải những sóng gió nhưng những người phụ nữ ấy lại mang trong mình những phẩm chất hết sức tốt đẹp:
“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Họ là những người phụ nữ luôn mang trong mình tấm lòng trong trắng, tốt đẹp, dù gặp cảnh ngộ nào cũng vẫn giữ được tấm lòng son sắt, thủy chung. Chữ son như một điểm sáng, nhãn tự trong bài, làm bừng sáng nét đẹp về nhân cách, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc. Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc. Kết hợp linh hoạt các mô típ của văn học dân gian khiến cho bài thơ vừa giản dị, gần gũi vừa mang dáng dấp uyên bác, tài hoa. Tất cả những yếu tố đó đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm
Qua tác phẩm này ta có thể thấy Hồ Xuân Hương là người hết sức trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ không chỉ ở phẩm chất mà ngay cả vẻ đẹp bề ngoài. Đồng thời lời thơ tha thiết cũng là tiếng nói cảm thông với số phận chìm nổi, bị lệ thuộc của người con gái. Qua đây còn lên án xã hội cũ đã đè nén, áp bức, tước bỏ quyền được lựa chọn cuộc sống, hạnh phúc của con người.
Cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước – Mẫu 2“Bánh trôi nước” là một trong rất nhiều những bài thơ viết về thân phận người phụ nữ của bà chúa thơ Nôm. Bài thơ mở đầu với mô típ quen thuộc trong ca dao than thân “thân em”, vừa bình dị vừa khiêm nhường mang đậm chất nữ tính. Giống như những tiếng than trong ca dao, bài thơ cất lên như một lời bộc bạch về thân phận người phụ nữ. Hình ảnh chiếc bánh trôi hiện lên vừa đẹp vừa chân thực trong hai câu thơ đầu tiên:
Vẻ đẹp của chiếc bánh trôi nước cũng như quy trình làm bánh được tác giả tái hiện rất cụ thể, sinh động. Bánh trôi có màu trắng tinh khiết của bột nếp, được nhào nặn tròn trịa rất xinh xắn, khi cho vào nước nguội bánh chìm xuống, nhưng đến khi nước sôi lên, bánh chín sẽ nổi trên mặt nước. Bánh trôi vốn là loại bánh dân dã, bình dị thân thuộc với đời sống con người nhưng qua con mắt tinh tế, nhạy cảm của nữ sĩ họ Hồ bỗng được gắn với vẻ đẹp và cuộc đời của người phụ nữ. Cũng giống như chiếc bánh trôi kia, người phụ nữ cũng mang vẻ đẹp trắng trẻo, tròn đầy, trong trắng, phúc hậu. Điệp từ “vừa” được nhắc lại hai lần trong câu thơ có ý nghĩa nhấn mạnh vẻ đẹp thân thể và phẩm chất của người phụ nữ. Cách dùng từ khéo léo không chỉ phô ra vẻ đẹp mà còn cho thấy niềm tự hào, sự tự ý thức về vẻ đẹp của người phụ nữ. Trong văn học xưa nay, rất hiếm khi người phụ nữ dám bạo dạn, tự tin trực tiếp nói lên vẻ đẹp của mình như thế, đó chính là nét cá tính độc đáo trong thơ Hồ Xuân Hương. Với những vẻ đẹp ngoại hình và nhân phẩm ấy, đáng lí ra, người phụ nữ phải được nâng niu và hưởng hạnh phúc, thể nhưng xã hội phong kiến bất công đã không cho họ có được điều ấy. Tác giả đã vận dụng sáng tạo thành ngữ dân gian “bảy nổi ba chìm” gợi liên tưởng đến cuộc đời long đong, lận đận, bấp bênh của người phụ nữ. Họ phải sống cuộc đời chìm nổi bởi lẽ có bao giờ của người phụ nữ được làm chủ cuộc đời của mình.
Chính vì cuộc đời nhiều bất công, lắm éo le ngang trái cho nên Hồ Xuân Hương đã thẳng thắn thay lời người phụ nữ cất lên tiếng nói than thân cùng sự khẳng định tấm lòng son sắt của người phụ nữ.
Giống như chiếc bánh trôi kia không được làm chủ số phận của mình, rắn nát hay đẹp đẽ đều do bàn tay của người nặn, người phụ nữ cũng không tự quyết định được số phận của mình. Cặp từ đối lập “rắn – nát” được đảo cấu trúc đặt đặt lên đầu câu nhằm nhấn mạnh những sự éo le, phụ thuộc trong cuộc đời người phụ nữ. Những thiết chế phong kiến khắt khe với quan niệm trọng nam khinh nữ, đạo lí tam tòng tứ đức đã trói buộc cuộc đời người phụ nữ, tước đi cuộc sống tự do, hạnh phúc của họ. Những người phụ nữ ấy không được phép sống vì mình mà phải sống và phụ thuộc vào người khác, họ xem đó như một định mệnh, nhẫn nhịn, cam chịu mà chấp nhận lấy. Thế nhưng, điều đáng quý, đáng trân trọng nhất ở người phụ nữ đó là phẩm chất bên trong của họ. “Tấm lòng son” chính là hình ảnh hoán dụ cho tấm lòng thủy chung, son sắt, trong sáng của người phụ nữ. Dù bị chà đạp bất công nhưng người phụ nữ vẫn giữ được giữ được nét đẹp tâm hồn của mình, cũng giống như những chiếc bánh trôi kia, dù rắn hay nát, chìm hay nổi thì vẫn không thể thay đổi hương vị của chiếc bánh. Hai từ “mặc dầu – mà em” trong hai câu thơ cho thấy sự cố gắng vươn lên số phận để bảo toàn nhân cách của người phụ nữ. Vẻ đẹp nhân phẩm ấy thật đáng trân trọng, ngợi ca!
Với nghệ thuật miêu tả tài tình, cách chơi chữ đầy nghệ thuật, hình ảnh ẩn dụ độc đáo cùng cách sử dụng thành ngữ điêu luyện, bài thơ “bánh trôi nước’ của Hồ Xuân Hương đã ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình và nhân phẩm người phụ nữ thông qua hình ảnh chiếc bánh trôi nước. Bên cạnh đó, nhà thơ còn lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến bất công chà đạp cuộc đời người phụ nữ. Tiếng nói ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ của Hồ Xuân Hương cho đến ngày hôm nay vẫn còn vang vọng, khi xã hội nam nữ bình đẳng, người phụ nữ được làm chủ được cuộc đời mình nhưng tấm lòng son sắt, hi sinh của người phụ nữ vẫn luôn ngời sáng.
Cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước – Mẫu 3Nhà thơ Xuân Diệu rất mê thơ Hồ Xuân Hương. Ông đã dành nhiều thời gian để thưởng thức, nghiên cứu thơ Xuân Hương và rất tâm đắc với cái biệt danh mà ông đặt cho nữ sĩ: Bà chúa thơ Nôm.
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nổi tiếng của nước ta vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, cùng thời với đại thi hào Nguyễn Du. Chế độ phong kiến ở giai đoạn suy tàn đã bộc lộ mặt trái đầy xấu xa, tiêu cực. Là người giàu tâm huyết với con người và cuộc đời, Hồ Xuân Hương đã gửi gắm vào thơ những điều suy tư trăn trở trước hiện thực phức tạp của xã hội, trước số phận bất hạnh của con người, nhất là phụ nữ. Bài thơ Bánh trôi nước phản ánh thân phận đau khổ, phụ thuộc của người phụ nữ và ngợi ca phẩm chất cao quý của họ.
Bánh trôi là thứ bánh quen thuộc, dân giã của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Gạo nếp xay nhuyễn thành bột, lọc cho mịn, để thật ráo rồi bẻ thành từng miếng nhỏ, nặn tròn cỡ quả cà pháo, nhân làm bằng đường thẻ có màu nâu đỏ. Cho bánh vào nồi nước sôi, luộc chín, vớt ra nhúng sơ vào nước lạnh rồi xếp vào đĩa. Lúc nguội, bánh ăn dẻo và thơm ngọt. Người xưa cho rằng đây là thứ bánh tinh khiết, có thể dùng để cúng. (Mùng 3 tháng 3 Âm lịch có tục cúng trời đất, tổ tiên bằng bánh trôi, bánh chay và hoa quả).
Bài thơ Bánh trôi nước thuộc loại thơ vịnh vật (giống như Quả mít, Cái quạt, Con ốc nhồi…). Hồ Xuân Hương chịu ảnh hưởng sâu sắc của cách diễn đạt trong thơ ca dân gian:
Chiếc bánh trôi vừa trắng, vừa tròn, thật đẹp đẽ, đáng yêu nhưng đằng sau những chi tiết rất thực ấy lại là điều Hồ Xuân Hương muốn nói: người phụ nữ và thân phận họ. Xưa nay, phụ nữ được coi là phái đẹp, là tinh hoa của Tạo hóa. Bởi vậy, nhìn chiếc bánh trôi nước xinh xắn, ta dễ dàng liên tưởng đến vẻ đẹp trong trắng của người con gái đang xuân.
Cũng giống như chiếc bánh trôi bao lần chìm nổi, người phụ nữ xưa phải chịu số phận bảy nổi ba chìm trong xã hội trọng nam khinh nữ đầy bất công. Lễ giáo phong kiến đã tước đoạt quyền tự do, buộc họ phải sống lệ thuộc vào người khác. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Đã vậy, những thế lực đen tối luôn đẩy họ vào nghịch cảnh đau thương. Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương cũng cùng chịu chung số phận với người phụ nữ trong thơ Nguyễn Du: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!
Không được làm chủ số phận của mình, người phụ nữ nào có khác chi chiếc bánh trôi ngon hay dở là do tay kẻ làm ra nó: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn. Nhưng điều đáng nói lại là chuyện khác, chuyện tấm lòng son. Nhân bánh trôi làm bằng đường thẻ màu nâu sẫm. Khi bánh chín, lớp vở bằng bột nếp có màu trắng trong, nhìn thấy rõ màu của nhân. Ví nhân bánh như tấm lòng son thì cái ẩn ý mà tác giả muốn gửi gắm đã bộc lộ ra. Hồ Xuân Hương kín đáo khẳng định rằng dù có bị chà đạp, vùi dập, dù cuộc đời có ba chìm bảy nổi đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ vẫn giữ nguyên vẹn phẩm giá cao quý của mình. Cách nói khiêm nhường mà chứa đựng một ý chí kiên định biết chừng nào. Đồng thời nó như một lời thách thức ngấm ngầm mà quyết liệt với cả xã hội phong kiến bạo tàn:
Bài thơ tứ tuyệt chỉ có bốn câu, hai mươi tám chữ mà hàm chứa bao ý nghĩa. Nữ sĩ Xuân Hương với cái nhìn nhân văn, với quan điểm tiến bộ và thái độ dũng cảm hiếm có đã phác họa thành công chân dung đẹp đẽ về người phụ nữ Việt Nam. Tư tưởng tiến bộ của Xuân Hương đã được thể hiện qua nghệ thuật thơ sắc sảo, điêu luyện. Điều đó khiến thơ của bà sống mãi trong lòng người đọc.
Cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước – Mẫu 4Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học đặc biệt và là một trong những nhà thơ nổi tiếng của văn học trung đại nói riêng, văn học dân tộc nói chung. Trong các sáng tác của bà, bài thơ em yêu thích nhất và ấn tượng nhất là bài thơ “Bánh trôi nước”.
Câu thơ đầu là hình ảnh của chiếc bánh trôi nước dưới con mắt của thi nhân.
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
Chiếc bánh trôi nước được miêu tả ưa hai nét ngắn gọn mà cụ thể “trắng, tròn”. Nó diễn tả được hình dáng đầy đặn và màu sắc đẹp đẽ của chiếc bánh trôi. Cụm từ “thân em” mở đầu khiến bài thơ có mô típ giống như ca dao than thân của văn học dân gian. Từ đó mà gợi nhắc ta về lớp nghĩa sâu xa của cái thơ đầu. Nó phải chăng còn là hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ đương thời. Trong văn học trung đại xưa thường tránh đề cập đến sắc nhưng tác giả đã không ngần ngại mà miêu tả sắc đẹp tròn đầy, khỏe mạnh của người phụ nữ với một thái độ trân trọng ngợi ca hết mực. Đó là sự nhân đạo của Hồ Xuân Hương.
Nhưng sắc đẹp vẫn không thể thay đổi vai trò, vị thế của người phụ nữ trong xã hội ấy. Họ sinh ra đã là người mang thân phận nhỏ bé, phụ thuộc.
Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” cùng phép đăng đối hài hòa của hai câu thơ đã góp phần khắc họa nỗi vất vả, chìm nổi lênh đênh của số phận người con gái. Họ bị cuộc đời dày vò vùi dập, thậm chí ngay cả cuộc đời mình “rắn” hay “nát” thì vẫn phải dựa vào người khác. Chiếc bánh trôi kia cũng phải trải qua bao nhiêu đau đớn, chịu bao gian truân khổ ải thì cũng là cuộc đời của người phụ nữ. Họ luôn bị phụ thuộc, không có quyền gì đối với cuộc đời của mình. Qua đó, tác giả bày tỏ lòng cảm thương sâu sắc và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến bất nhân, tước quyền làm người của những người phụ nữ. Nhưng mặc dù bị vùi dập bị bẻ nát thì trong tâm hồn họ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ đẹp.
“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Tấm lòng son ở đây là tấm lòng trong sáng và đẹp đẽ. Dù hoàn cảnh có khắc nghiệt, tàn nhẫn đến mức nào đi chăng nữa tâm hồn người phụ nữ vẫn luôn được giữ gìn và làm phát triển hơn. Người phụ nữ đẹp cả về cốt cách lẫn bên ngoài, từ đó khẳng định phụ nữ là vẻ đẹp của tạo hóa và họ là những người vẫn đáng thương vừa đáng ngưỡng mộ, ngợi ca. Từ đó, Hồ Xuân Hương thể hiện niềm tự hào phái nữ và lên tiếng đòi quyền tự chủ cho những người phụ nữ.
Bài thơ ngắn gọn cô đọng hàm súc lời ít ý nhiều nhưng lại mở ra một bức tranh toàn vẹn về vẻ đẹp của người phụ nữ. Qua đó ta thêm hiểu hơn và trân trọng tài năng, tâm huyết của thi nhân dành cho người phụ nữ.
Cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước – Mẫu 5Hồ Xuân Hương là một người phụ nữ tài hoa, thông minh của nền văn học Trung đại Việt Nam. Chính nhờ sự tài hoa đó bà được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm với một loạt các tác phẩm nổi tiếng nói về tiếng lòng, giá trị, nhân phẩm người phụ nữ trong xã hội xưa. Một trong những tác phẩm chữ Nôm đặc sắc của bà là Bánh trôi nước. Bài thơ phản ánh cuộc sống đau khổ tột cùng của người phụ nữ đồng thời ca ngợi tấm lòng son sắt và thủy chung của những người phụ nữ ấy.
Với những người dân Việt, chắc hẳn không còn xa lạ với loại bánh trôi nước. Món bánh này xuất phát từ vùng đồng bằng Bắc Bộ với công thức đơn giản nhưng rất dễ ăn. Với màu trắng tinh khiết của bánh người xưa quan niệm đây là thứ bánh tinh khiết, được sử dụng dâng lên bàn thờ tổ tiên để thể hiện lòng thành kính. Xuất thân từ nữ giới, sống
vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX khi chế độ phong kiến ở giai đoạn suy tàn, bộc lộ mặt trái đầy xấu xa, tiêu cực Hồ Xuân Hương đã cảm nhận rõ sự phức tạp của xã hội, số phận bất hạnh của con người, nhất là phụ với thân phận đau khổ, phụ thuộc:
Bánh trôi nước có vỏ ngoài trắng, tròn, nhân bên trong đỏ son. Dùng nước để luộc chín bánh, khi bánh sống thì chìm sâu dưới đáy, khi chín thì nổi lên mặt nước. Với biện pháp tu từ so sánh “thân em” như bánh trôi nước để nói lên thân phận nhỏ bé, heo hắt của người phụ nữ trong xã hội xưa. “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” làm nổi bật ý nghĩa: cũng giống như chiếc bánh trôi vừa trắng, vừa tròn, thật đẹp đẽ, đáng yêu, người phụ nữ trong xã hội xưa luôn là phái đẹp, là tinh hoa cả tạo hóa, trong trắng. Nhưng ẩn sau vẻ đẹp đó là sự “bảy nổi ba chìm với nước non”. Với biện pháp đảo ngữ “Bảy nổi ba chìm” đã khắc họa đậm nét hình ảnh chiếc bánh trôi lênh đênh, phiêu dạt với nước non. Từ đó, cho ta những suy nghĩ xót xa về số phận bảy nổi ba chìm trong xã hội trọng nam khinh nữ đầy bất công. Chính lễ giáo phong kiến của xã hội cũ đã tước đoạt quyền tự do của người phụ nữ, buộc họ phải sống lệ thuộc vào người khác. Không chỉ có Hồ Xuân Hương lên tiếng về thân phận người phụ nữ mà Nguyễn Du cũng có những đồng cảm với họ:
Dường như bất lực với số phận, người phụ nữ trong xã hội xưa dường như buông xuôi, phó mặc cho số phận:
Vẫn là mượn hình ảnh bánh trôi nước để nói về thân phận phụ nữ. Khi không được quyết định số phận, làm chủ cuộc đời của mình, người phụ nữ khác chi chiếc bánh trôi ngon hay dở là do tay kẻ làm ra nó bởi người phụ nữ xưa đâu được tự lựa chọn chồng cho mình mà phải theo ý cha mẹ, không được lựa chọn công việc để làm mà phải theo ý chồng,… Để rồi “Bảy nổi ba chìm” với nước non như thế, bánh trôi nước vẫn giữ được màu đỏ sẫm của đường thẻ. Khi bánh chín, lớp vở bằng bột nếp có màu trắng trong, nhìn thấy rõ màu của nhân. Khi tác giả so sánh nhân bánh như tấm lòng son thì cái ẩn ý mà tác giả muốn gửi gắm đã kín đáo bộc lộ rằng dù có bị chà đạp, vùi dập, bị lệ thuộc đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ nguyên vẹn phẩm giá cao quý của mình. Mặc dù thân phận nhỏ bé nhưng người phụ nữ có một ý chí kiên định biết chừng nào. Đồng thời đây như một lời thách thức ngấm ngầm mà quyết liệt với cả xã hội phong kiến bạo tàn. Để rồi, đến ngày nay, trải qua bao nhiêu năm của bề dày lịch sử, người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn giữ gìn được cốt cách thanh cao, giá trị trong trắng của bản thân. Chính nhờ cốt cách này đã làm nên vẻ đẹp của phụ nữ Việt, giúp phụ nữ Việt tự tin khẳng định giá trị bản thân với phụ nữ khắp thế giới. Để từ đó, ngày nay xã hội đã công nhận giá trị và tôn vinh vẻ đẹp, cốt cách của người phụ nữ Việt.
Dù ở chế độ, xã hội nào đi chăng nữa người phụ nữ Việt Nam luôn đẹp. Qua bài thơ đã thể hiện tư tưởng tiến bộ, đầy nhân văn của Hồ Xuân Hương với nghệ thuật thơ sắc sảo, điêu luyện. Điều đó khiến thơ của bà sống mãi trong lòng người đọc.
Cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước – Mẫu 6Viết về người phụ nữ là một đề tài quen thuộc. Hồ Xuân Hương cũng đã đóng góp vào đề tài trên bài thơ “Bánh trôi nước”. Tác phẩm đem đến nhiều cảm nhận sâu sắc cho người đọc.
Bài thơ viết về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, đó là một thân phận nổi trôi, phù du và vận mệnh, cuộc sống của mình họ không được tự định đoạt mà hoàn toàn là do những người đàn ông, những người chồng của họ.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã gợi mở những hình ảnh của những chiếc bánh trôi nước. Bánh trôi nước là loại bánh làm bằng bột gạo nếp, qua bàn tay của những người nghệ nhân thì khi nặn xong chúng có hình dạng tròn trịa cùng một màu trắng đặc trưng của gạo. Nhà thơ Hồ Xuân Hương đã mượn hình ảnh của những chiếc bánh trôi nước để nói về cuộc sống và số phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Hiểu như thế ta có thể thấy qua hình ảnh tròn, trắng của những chiếc bánh trôi gợi ra vẻ đẹp bên ngoài, vẻ đẹp hình thể của những người phụ nữ.
Nhưng đối nghịch với vẻ đẹp đầy sức sống đó lại là một số phận, tương lai đầy mịt mờ, tăm tối: “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Về ý nghĩa tả thực, ta có thể hiểu đây là là quá trình luộc chín bánh, hoàn thành bước cuối cùng. Nhưng đây cũng chỉ là một hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Bởi nó gợi ra số phận, cuộc đời đầy thăng trầm, biến đổi của những người phụ nữ. Như đã nói, trong xã hội xưa, sinh ra trong thân phận của người phụ nữ vốn đã là một thiệt thòi, bất công.
Advertisement
Bởi từ khi sinh ra đến lúc dựng vợ gả chồng thì họ hoàn toàn không được quyết định bất cứ vấn đề gì, kể cả tình yêu, đối tượng kết hôn, hạnh phúc của cả cuộc đời mình, vì trong xã hội xưa có quan niệm “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, hay “xuất giá tòng phu”, nghĩa là một khi đã lấy chồng thì mọi việc đều phải theo chồng. Vì vậy mà số phận thăng hay trầm đều hoàn toàn dựa vào người chồng của mình:
Đến câu thơ này thì ý niệm của hai câu thơ đầu được thể hiện, triển khai một cách rõ nét, cụ thể hơn. Nếu như những chiếc bánh trôi tròn, méo, rắn, nát đều phụ thuộc vào tay người nặn, nếu như được họ cẩn trọng, nâng niu thì khi hoàn thành chiếc bánh sẽ có hình tròn mà màu trắng trong. Ngược lại, nếu người nghệ nhân vô tâm, hời hợt thì chiếc bánh sẽ bị méo mó, và khi luộc trong nước sẽ bị vỡ. Đối với người con gái trong xã hội xưa cũng vậy, nếu may mắn gặp được người cũng biết yêu thương, trân trọng thì cuộc sống của học sẽ hạnh phúc, vui vẻ; còn khi lấy phải người chồng độc đoán, vũ phu thì họ sẽ có cuộc sống đau khổ, bất hạnh. Nhưng dẫu cuộc sống có bất biến, phù du thì những người con gái ấy vẫn giữ được vẻ đẹp trong trắng thủy chung trong tâm hồn. Đến đây thì hình ảnh của những người phụ nữ trong xã hội xưa được hoàn thiện, không chỉ có vẻ đẹp ngoại hình mà vẻ đẹp tâm hồn của họ rất đáng được trân trọng.
Qua bài thơ, Hồ Xuân Hương cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước – Mẫu 7Hồ Xuân Hương được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Một trong tác phẩm nổi bật của bà là bài thơ “Bánh trôi nước”. Tác phẩm đã thể hiện sự trân trọng trước vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ niềm thương cảm cho cuộc đời lận đận của họ:
Khi đọc bài thơ, chúng ta có thể thấy được Hồ Xuân Hương đang miêu tả cách làm ra một chiếc bánh trôi. Hình ảnh chiếc bánh trôi hiện lên với màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn). Cùng với đó là cách thức làm bánh luộc bánh trong nước, khi nào bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín. Bên trong nhân bánh thường được làm bằng đường phên. Viên bánh rắn hay nát phụ thuộc vào tay người nắn có khéo léo.
Nhưng ẩn sâu bên trong hình ảnh đó, Hồ Xuân Hương còn muốn nói đến vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Cách dùng cụm từ “thân em” mang dáng dấp của ca dao xưa:
Hoặc có thể là:
Dù là ca dao hay trong thơ Hồ Xuân Hương, việc mở đầu bằng cụm từ “thân em” đều xuất phát từ niềm thương cảm, xót xa cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ là những con người nhỏ bé trong xã hội. Cuộc đời trôi nổi, bấp bênh và không được tự quyết định cuộc sống của bản thân, chịu sự chi phối của người khác.
Tiếp đến, Hồ Xuân Hương cũng thật khéo léo khi sử dụng thành ngữ “bảy nổi ba chìm” gợi ra một cuộc đời vất vả, gặp nhiều gian truân. Câu thơ “rắn nát mặc dầu tay kẻ nạn” đã nói lên số phận phải phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. Dù vậy thì người phụ nữ vẫn luôn “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Đó là lời khẳng định về tấm lòng thủy chung, son sắc.
Bánh trôi nước là một tác phẩm giàu giá trị nhân văn sâu sắc. Bài thơ đem đến cho người đọc những ấn tượng, và càng thêm yêu mến thơ ca của Hồ Xuân Hương.
Cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước – Mẫu 8Số phận người phụ nữ được nói đến nhiều trong thơ ca Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến bài thơ “Bánh trôi nước” của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, với hai nét nghĩa tả thực và ẩn dụ. Chiếc bánh trôi được nhà thơ miêu tả với màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn). Cùng với đó là cách thức làm bánh – luộc bánh trong nước, khi nào bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín. Bên trong nhân bánh thường được làm bằng đường phên. Bánh trôi khi chín rắn hay nát là do người nặn có được khéo léo. Tưởng chừng như đơn giản nhưng cũng kì công để có thể hoàn thành một bát bánh trôi hoàn hảo.
Nhưng qua hình ảnh chiếc bánh trôi, chúng ta còn thấy được một nét nghĩa khác – hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Ca dao xưa cũng đã từng nhắc đến:
Hay Nguyễn Du đã từng viết:
Dù là ca dao hay trong thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng đều cho thấy số phận bất hạnh của người phụ nữ. Họ là những con người tài sắc vẹn toàn, mà lại phải chịu kiếp sống long đong. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” đã làm rõ hơn về số phận vất vả, gặp nhiều gian truân. Thậm chí, họ còn không được tự quyết định cuộc đời của mình mà phải “rắn nát mặc dầu tay kẻ nạn” – phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. Điều đó khiến chúng ta càng thêm thương xót, đồng cảm hơn cho người phụ nữ trong xã hội xưa.
Câu thơ cuối như một lời khẳng định: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Dù cuộc đời có khổ cực, nhưng người phụ nữ vẫn luôn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắc. Điều đó khiến chúng ta càng thêm cảm phục, ngưỡng mộ họ.
Như vậy, Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương đã đem đến cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Đây quả là một bài thơ hay, giàu ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 12: Tổng Hợp Kết Bài Về Bài Thơ Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm (57 Mẫu) Kết Bài Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm trên website Gxpp.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!